Quyển 5 - Chương 201: Phó hội (Đến tham dự)
Nguyệt Quan
20/03/2013
“Đại nhân tới". "Những cái linh kiện này đều là dùng cho chiếc cung mà ta đang nghiên cứu”…Tới tận lúc Dương Hạo lên tiếng, Lý Hưng đang rất tập trung mới phát hiện ra bọn họ đang vào, liền vội vàng cầm một chiếc cung đã hoàn thành một nửa dâng lên.
“Cung làm đến đâu rồi?”
“Còn cần hai ngày nữa mới hoàn thành” Lý Hưng nói, cầm chiếc cung đã hoàn thành một nửa đặt lên trên án, cầm lên vài cái linh kiện nhỏ có tròn có vuông có dài có ngắn thoăn thoắt đặt lên trên để ngắm thử, được một lúc hắn gỡ lấy một linh kiện nhỏ có hình răng cưa ròng rọc, đổi bằng một miếng sắt khác, chỉ ra vài chỗ cần mài giũa thêm rồi hắn lập tức mang trở về gia công.
Thực ra cây cung mà Lý Hưng vẫn nói đến chính là thần tí cung sau này, chiếc cung này có thể nói là một tác phẩm đỉnh cao của vũ khí viễn chiến trong các loại vũ khí đơn binh thời vũ khí lạnh. Bởi vì vật này đến hậu thế đã sớm bị thất truyền, nên đã có rất nhiều người nghi ngờ rằng nó chỉ là một loại nỏ tiễn, nếu không thật khó tưởng tượng sẽ có một vũ khí nào có uy lực lớn đến vậy. Mà lúc này Dương Hạo lại được nhìn thấy, dù rằng chiếc cung lắp thêm rất nhiều linh kiện hỗ trợ, so với những cây cung bình thường coi như một loại vũ khí vô cùng tinh tế, nhưng nó không nghi ngờ gì vẫn chỉ là một cây cung, mà không phải nỏ.
Những linh kiện tinh xảo do Lý Hưng tạo ra đã đảm bảo cho lực căng cung ban đầu, quá trình bắn của tầm bắn, nhưng nó vừa không giống chiếc nỏ bàn thô kệch, cũng không chậm chạp như nỏ cầm tay, hơn nữa với sự hỗ trợ của các linh kiện, thậm chí còn khiến tốc độ bắn tên của nó nhanh hơn các loại cung khác, chỉ là trong quá trình bảo dưỡng so với cung bình thường yêu cầu cao hơn.
Thực tế cho dù triều đình nhà Tống đối với loại vũ khí kĩ thuật quân sự cao minh này bảo mật nghiêm ngặt, nhưng loại kĩ thuật này vẫn bị lộ ra ngoài, cho đến sau này trong sách “Vĩnh Nhạc đại điển” còn chi tiết ghi chép lại các kĩ thuật chế tạo các linh kiện của nó. Học giả Kỉ Hiểu Giải của đời nhà Thanh đã từng chính mắt nhìn thấy những bức tranh này, và còn muốn dựa vào đó chế tạo lại khôi phục thần tí cung. Nhưng đáng tiếc những bức tranh trong “Vĩnh Nhạc đại điển” chỉ là các tranh vẽ bộ phận đơn lẻ của thần tí cung, không có tranh tổ hợp lại, dựa vào sự thông minh của học sĩ Kỉ cũng chẳng thể hiểu được các bộ phận rời rạc này của thần tí cung làm thế nào lắp ráp với nhau.
Sau đó trong biến cố “tứ tạc đồ thư”, thực tế chính là một cuộc thanh trừ càn quét lớn đầu tiên được tiến hành với các tác phẩm nổi tiếng trong lịch sử, biên soạn sưu tầm tài liệu trong hơn chục năm của tứ khố, triều đình đại Thanh đem tất cả nhưng thứ họ không muốn xem hoặc không cần xem thiêu hủy thành tro. Ngoài một số ít các tư liệu nhà nông, y học và thiên văn các phương pháp tính toán có tính khoa học, được sửa đổi và ghép vào thành một bộ sách, rất nhiều các tác phẩm nổi tiếng kĩ thuật khoa học cùng một vài tiểu thuyết, kịch vui của tiền triều đều bị tiêu hủy. Các sách bị đốt tổng cộng hơn ba nghìn một trăm loại, hơn mười lăm vạn bộ, quả thực là một đại nạn trong lịch sử, kết quả đến những bức tranh về các bộ phận của thần tí cung cũng hoàn toàn biến mất, người đời sau chỉ đành đoán già đoán non.
Lúc này Dương Hạo lại được tận mắt chứng kiến chiếc cung mạnh mẽ thần kì này. Cho dù nó mới chỉ là những hình thù đơn giản nhất nhưng theo những gì mà Lý Hưng giải thích, hắn cũng sơ sơ hiểu được sức mạnh của nó. Chế tạo ra loại cung này so với các cây cung bình thường đương nhiên khó hơn rất nhiều, dù rằng nó chủ yếu vẫn sử dụng gỗ tang mộc vừa chắc vừa dẻo, nhưng còn được dùng tổ hợp phức tạp các nguyên liệu khác. Tên sử dụng cũng ngắn hơn rất nhiều so với tên bình thường, nhưng dù tên khá mảnh nhưng do lực bắn ra cực nhanh, ba trăm bước vẫn có thể xuyên thủng mục tiêu, áo giáp thông thường không thể chống đỡ được, vì thế lực sát thương của nó rất đáng sợ.
Nghe Lý Hưng giải thích, Dương Hạo đột nhiên nhớ tới một vấn đề quan trọng, vội vàng nói: “Chiếc cung này chế tạo cần bao lâu thời gian? So với các cây cung bình thường phải tiêu tốn bao nhiêu thời gian?”
Đồ tiên tiến hơn, không nhất định phải là thực dụng nhất, một vài vũ khí tiên tiến, bởi vì thời gian và tiền bạc tiêu tốn quá nhiều, làm cho kinh phí hao tổn chiến tranh quá lớn, không thể dùng trong thực tiễn.Về điểm này Dương Hạo hiểu rõ.
Lý Hưng cười nói: “Hiện này các linh kiện của cung đều phải làm từ đầu, sắt cũng phải rèn thêm, các nguyên liệu dùng chế tạo cung cũng vừa mới chuyển đến, vì thế hơi chậm. Nếu mười mấy đồ đệ của ta tới, tất cả các thứ đều chuẩn bị đủ cả, chỉ một tháng là có thể làm ra mười mấy cái cung.
Về phần tiền tài hao hụt, đương nhiên so với cung bình thường đắt hơn tám lần.”
Cái giá này so với sinh mệnh con người trong chiến tranh bị thiệt hại tương đối là đáng giá. Tốc độ chế tạo cũng nhanh rồi. Nếu phải mở rộng sản xuất, đương nhiên còn cần mở rộng người làm với số lượng lớn. Nếu có thể hình thành một nghề sản xuất lưu hành, tốc độ sẽ tăng lên nhanh hơn. Dương Hạo tính toán một hồi, rồi gật đầu.
Đúng lúc này, có người vội vàng chạy vào bẩm báo: “…..Đại nhân, Chiết phủ gửi tới mấy chục xe binh khí áo giáp lớn, Phạm Chủ Bộ đang tìm ngài khắp nơi.”
“Ừ! Mau đi thôi.” Dương Hạo vui vẻ, sau khi vội vàng rời đi, Dương Hạo đột nhiên nhớ ra một chuyện liền hỏi: “Trình Đức Huyền gần đây có động tĩnh gì khác lạ không?”
Lý Quang Lê cười nói: “Ngài an tâm hắn thì có thể làm ra chuyện xấu gì? Yên tâm được rồi, hắn ở Lô Lĩnh Châu vốn là không có chỗ dựa, đến một người có thể gọi điều động cũng không có, vốn là một tên mù điếc thôi. Hơn nữa, hắn là phán quan của Lô Lĩnh Phủ, muốn độc lập một mình đi khắp nơi chắc cũng không thể, ở đây lại khuất trong bóng tối, hắn vốn không hề hay biết. Để phòng vạn nhất, đến người phục vụ bên cạnh hắn Dương Tấn Thành cũng thường xuyên thay đổi.”
Dương Hạo gật đầu, thở dài nói: “Thực ra ta cũng không muốn cô lập hắn, nhưng trong lòng con người này trong lòng nghĩ những gì, ta thực sự không thể nào đoán được, quan hệ với người như vậy quả thật là quá mệt mỏi. Cũng đành kính cẩn từ xa. Chỉ cần hắn không đến làm hỏng chuyện của ta thì ta cũng sẽ không làm khó hắn. Sắt thép cũng bắt đầu mua bán rồi chứ?”
Lý Quang Cầm nói: “Chuyện này ngài lại càng có thể yên tâm, chúng ta nhờ cậy rất nhiều các thương gia, mua bán về bao nhiêu sắt thép cũng không bị tra ra. Còn về xây tháp, ha ha, nếu làm ăn gian lận từ bên trong lại càng dễ dàng, trừ phi có kẻ đem các tháp sắt được thích chữ của các quan gia Đại Tống ra cân đong từng cân, nếu không ai biết bên trong đó có bao nhiêu sắt? Việc này là Lâm Bằng Vũ phụ trách, người này nhanh nhẹn, mắt chỉ cần đảo một cái là có một chủ ý, Trình Đức Huyền dù được rèn luyện mấy năm kinh nghiệm quan trường nhưng lại cũng không bằng được lão hồ ly này.”
Dương Hạo cũng cười, Lâm Bằng Vũ là một trong những tâm phúc hắn tự tay bồi dưỡng. Lâm Bằng Vũ là người đến từ Bắc Hán, người thân trong gia đình đều sống ở nơi đây, kẻ tận trung có mục đích nếu muốn trọng dụng cũng hoàn toàn yên tâm. Kì thật Phạm Tư Kỳ cũng là một người trung thành, hắn là một văn nhân truyền thống, sau khi nhận chủ công, tấm lòng trung thành còn đáng tin hơn kẻ quan tâm đến lợi ích thiệt hơn Lâm Bằng Vũ. Ngươi vĩnh viễn không bao giờ cần lo lắng loại người này sẽ phản bội mình
Nhưng người này trung thành đến mức ngu xuẩn, trong mắt hắn, chuyện thế gian đen là đen, trắng là trắng vốn là không tin có màu xám ở giữa. Người như vậy, nếu giao cho hắn những việc liên quan tài vụ, trướng vụ, văn án có thể yên tâm, nhưng để hắn đi lừa người khác thì nhất định không phải loại người này. Hơn nữa nếu hắn biết Dương Hạo có những thủ đoạn không thể bày ra ánh sáng nhất định còn phải đau khổ dằn vặt khôn nguôi. Người tận kỳ tài, tài năng của hắn không thuộc phương diện này, có vài việc Dương Hạo cũng đành giấu hắn.
Suy nghĩ của Dương Hạo không sai, Trình Đức Huyền quả thật đã nhàn rỗi mấy hôm nay, nhưng hắn bản tính đã thích lao lực. Dù rằng việc công nhàn hạ nhưng hắn không để cho bản thân được rảnh rỗi. Lúc này hắn đang ngồi trong phòng mình viết tấu chương, đem tất cả những việc Dương Hạo dạo này đi lại mật thiết với phủ lại thêm những phỏng đoán của bản thân viết ra.
Sau khi bức tấu chương lần trước thông qua các thương nhân đến Lô Lĩnh châu kinh thương truyền ra, đổi lại hắn nhận được một bức khẩu dụ từ ngữ nghiêm khắc của Triệu Khuông Dận. Khẩu dụ không chỉ lột trần luận điệu của hắn, còn nói muốn hắn và Dương Hạo hợp tác vui vẻ, bảo đảm khiến Lô Lĩnh Châu ở nơi đất này được yên ổn phát triển, nếu cần thiết sẽ dùng những biện pháp mạnh, từ ngữ đối với Dương Hạo lại tỏ rõ sự tín nhiệm và dung túng.
Nhưng Trình Đức Huyền không bị Triệu Khuông Dận làm cho sợ hãi, mật tấu của hắn từng bức tiếp từng bức. Hắn không sợ Triệu quan gia trách phạt, nếu Triệu quan gia thật sự muốn bảo vệ Dương Hạo, cùng lắm là điều hắn đi, hà tất quá nặng nề chuyện trách cứ hắn. Có khi, mắng hắn càng nặng lời càng chứng minh coi mình là người của hắn, điểm này Trình Đức Huyền quá rõ.
Hơn nữa, sau lưng hắn còn có một Triệu Quang Nghĩa, Triệu Khuông Dận dành cho người huynh đệ này một tình cảm anh em ruột thịt thân thiết, chỉ cần Triệu Quang Nghĩa nói vài lời trước mặt hắn trọng lượng thế nào có thể hiểu được. Muốn diệt ai giúp ai cũng được. Huống hồ Dương Hạo gan lớn, rất nhiều vệc không phải Trình Đức Huyền hắn dùng lương tâm mà nói chuyện, bản tấu chương này được dâng lên, lại có vị Nam nha phủ đứng sau giúp sức, hắn không tin không động được đến một kẻ chẳng có lấy chút thế lực trong triều đình như Dương Hạo.
Chữ cuối cùng đã viết xong, Trình Đức Huyền thổi thổi bức thư, đem nó cẩn thận gấp lại nhét vào trong ống tay áo.
Các thương gia dưới sức ép của Đường gia phải lần lượt theo nhau bỏ chạy đến Lô Lĩnh châu, bức mật thư này của hắn rất nhanh có thể gửi đi, cứ nghĩ đến đây, trên môi hắn lại nở nụ cười lạnh lùng: “Thuốc này cũng kha khá rồi, Dương Hạo à Dương Hạo, ‘tiền nhân tài thụ, hậu nhân thừa lương’ (người trước tạo phúc cho người sau), đợi khi Lô Lĩnh châu trưởng thành thành một cây đại thụ chọc trời, lúc đó ngươi sẽ chôn xác dưới gốc cây này hay sẽ lưu lạc nơi chân trời nào đây?”
…………………………………….
Áo giáp và vũ khí Chiết phủ mang đến đủ để trang bị cho một nghìn năm trăm người. Vũ khí chủ yếu là cung, thêm vào đó có đại đao, đại phủ đều là những vĩ khí thích hợp khi chiến đấu với kẻ địch khi cưỡi trên lưng ngựa. Những bộ áo giáp này dù rằng đều là bì giáp nhưng khi mặc lên đeo thêm cây cung quả là chỉnh tề. Những đoàn dân tráng vốn vì các hình dáng màu sắc của vũ khí lập tức trông như càng rực rỡ, có vài phần khí thế của một quân nhân thực thụ. Cùng lúc này, các đoàn luyện Lô Lĩnh Châu đang tiến hành diễn tập và mở rộng, ngoài những người Hán bản địa, còn người Khương từ các vùng lân cận trong các bộ lạc triệu tập vài dân tráng đến. Những sức chiến đấu của binh sĩ hết sức khả quan, đặc biệt là ý chí kiên cường chiến đấu của họ, cho dù gặp địch mạnh cũng ít người hoảng sợ bỏ chạy, vì thế đối với bọn họ chỉ cần luyện sẽ trở thành một sức mạnh lớn.
Hơn nữa, chiêu mộ người Khương, phân tán họ cho ở cùng với những binh sĩ người Hán có thể nhanh chóng đánh tan cảm giác lạ lùng giữa những người Hán và người Khương, tăng thêm sự hòa nhập giữa họ.
Còn về phần dân tráng được chọn ra từ các dân tráng ban đầu để bảo vệ Dương Hạo khi tiến về bộ lạc Dã Ly thị, đều có một nền móng võ nghệ nhất định, trong đội ngũ các dân tráng ban đầu sức chiến đấu cũng khá mạnh, lúc này các giáo quan Chiết phủ phái đến đã thiết lập và tăng cường kỉ luật với bọn họ, rồi bồi dưỡng họ các cách tiến cách lùi theo đội hình. Thêm phần phục trang quân trang chỉnh tề, về mặt tinh thần diện mạo so với trước đây hoàn toàn không giống. Cho dù kinh nghiệm chiến đấu của họ vẫn chưa phong phú.
Dương Hạo đem theo các đội ngũ và các thương cổ trên đường đi này chủ yếu là muốn hù dọa người, những dân tráng này mỗi người đều phải mặc một chiếc áo lụa, mặc bên trong một chiếc áo khoác, khi Dương Hạo đi thăm tình hình tiến độ làm cung tiễn của Lý Hưng, đột nhiên nhớ ra một chuyện. Hắn đã từng đọc được một đoạn giới thiệu trên một tạp chí nào đó, nói rằng độ mềm dẻo đàn hồi của lụa rất cao, sau khi Thành Cát Tư Hãn đã phát hiện đặc điểm này, liền hạ lệnh tất cả các binh sĩ đều phải mặc áo tơ lụa bên trong. Từ đó áo lụa nội y trở thành một phục trang có tính bảo vệ của những tráng sĩ cưỡi ngựa Mông Cổ, tên bắn cào khó để bắn xuyên qua áo tơ, khiến cho tên dễ dàng rút ra, có thể tránh được làm vết thương lở loét do lúc rút tên ra gây thương vong, giảm được đáng kể thương vong của binh sĩ. Vì có cách nghĩ này, hắn đương nhiên cho cá binh sĩ của mình dùng nó.
Đi trên cả đoạn đường quả là một hành trình hành quân an nhàn. Bọn họ đi ven theo những dãy núi Hoành Sơn, dãy núi Hoành Sơn là phạm vi thế lực của Dã Ly Thị, trải qua một trận chiến càn quét người Khương, hiện tại các bộ lạc lớn nhỏ sống tản mạn ở dãy núi Hoành Sơn đã không dám động đến Dương Hạo.
Hạ Châu là thế lực uy hiếp duy nhất với Dương Hạo nếu muốn xuất đại quân thảo phạt hắn, thì cần phải hành quân đường xa, xuyên qua địa bàn đảng phái Lục thị. Dù rằng hiện tại đôi bên đang án binh bất động nhưng đôi bên vẫn đang trong trạng thái quan sát tình hình địch. Cuối cùng còn phải đi vào vùng đất thế lực của Ly Dã Thị, làm như vậy quá mạo hiểm.
Trong tình hình như vậy, hắn phái một đội quân nhỏ người ngựa không gây ra tiếng ồn lớn đi thăm dò, vì đại quân người ngựa không che giấu nổi tai mắt người khác, hơn nữa Dương Hạo trên đường đi về phía bộ lạc Dã Ly Thị, thời gian hành trình không định, lộ trình hành quân cũng không cố định, cho dù Hạ Châu muốn liều mạng, phái đại quân truy sát theo cũng rất khó tìm thấy tung tích hắn. Muốn ra tay chỉ có thể phục kích vào trại Lô Lĩnh. Theo cách nghĩ và sự phân tích này, Dương Hạo liền đem chủ lực đặt lại ở Lô Lĩnh Châu.
Sự tình quả nhiên như hắn dự liệu, vô cùng yên tĩnh, khi đi qua một vài bộ lạc nhỏ, vừa nhìn thấy đoàn quân dung nghiêm trang, biết là quân nhân của Lô Lĩnh Châu, những người Khương lập tức lộ ra vẻ kính sợ. Trên thảo nguyên, chỉ có kẻ mạnh mới được xưng vương, người thảo nguyên chỉ thừa nhận thực lực của kẻ mạnh, chỉ cúi đầu trước những người nắm sức mạnh.
Vẻ cung kính của bọn họ khiến cho những người Lô Lĩnh Châu vốn từ cá dân tráng thành binh sĩ cũng cảm thấy có chút tự hào trong lòng, một sự vinh dự và tự hào thuộc về người chiến sĩ.
Về kĩ năng chiến đấu bọn họ không thể chống lại những kị sĩ thảo nguyên từ nhỏ đến lớn đều sống trên lưng ngựa được, nhưng về mặt sĩ khí và tinh thần bọn họ không thua bất cứ một kẻ nào.
Mặt trời đã tà tà xuống núi, đất đai hoang vu ở đây phủ đầy màu vàng, âm thanh tiếng chuông của những con lạc đà chở nặng hàng hóa phát ra, khiến con người cảm thấy giống đang đi bộ ở trên sa mạc, mặt trời như một bánh xe đỏ huyết đang lặng lẽ trong bóng hoàng hôn không âm thanh không tiếng thở chìm khuất nơi xa xa, trước mặt lại là một dòng sông lấp lánh ánh mặt trời vàng rực rỡ.
Đội quân của Dương Hạo hạ trại ở bên cạnh dòng sông này, từng con lạc đà quỳ xuống, những hòm hàng hóa nặng nề trên lưng chúng được dỡ xuống, từng tấm lều mới được dựng lên một nửa, Dương Hạo đứng bên dòng sông, cởi đôi giày da hít thở không khí, rửa mặt bằng làn nước mát trong của dòng sông.
Đột nhiên, có một tiếng rít gió thê lương của một chiếc tên từ xa bay đến, lực bay của tên mạnh, rơi xuống trúng dòng nước sông vàng kim, biến mất không hình không ảnh, đây là thông tin của trạm canh gác gửi tới nơi họ đóng quân.
Dương Hạo đang rửa mặt bên dòng sông trừng mắt ngẩng đầu lên, nhìn thấy mấy cái tên, Mộc Ân vội đến bên chiến mã của hắn, vừa quay người liền nhảy lên ngựa, đồng thời lớn tiếng nói: “Điền Tửu, bảo vệ đại nhân!”
“Ta” Dương Hạo còn chưa kịp nói xong, Điền Tửu đang đứng bên cạnh liền ném túi nước, vội vàng chạy lại, cứ thế lùa lạc đà và hàng hóa thành một vòng, Dương Hạo lúc này chân không chạm được đất. Dương Hạo hổn hển nói: “Giày của ta……….”
Hắn quay đầu nhìn thấy Đường Diễm Diễm đang đứng ở bên cạnh dòng sông, sợ nàng bị thương vội vàng gọi: “Đường Cô nương……….”
Đường Diễm Diễm ưỡn ngực hóp bụng, tức giận nghĩ: “Sao nữa, còn muốn bản cô nương phải nhặt giày cho người hay sao? Ta nợ ngươi kiếp này à……..”
Tuy thế nghĩ đi nghĩ lại, nàng vẫn chạy đi nhặt giày cho Dương Hạo rồi hổn hển chạy theo hắn.
Những binh sĩ vừa từ dân tráng trở thành chiến sĩ được huấn luyện dưới bàn tay ma quỷ của Mộc Ân, lại đã từng trực tiếp tham gia chiến đấu, nên tốc độ phản ứng cũng rất nhanh, đương nhiên, để tránh các thương bị tên bay đến nên được xếp vào giữa những vật cản được tạo nên từ hòm hàng hóa và lạc đà, các binh sĩ tay cung tay đao đã sẵn sàng bảo vệ. Nhưng qua một lúc lâu vẫn không thấy tiếng vó hay bóng dáng người ngựa ù ù đến, Mộc Ân liền đem theo vào người thân tín đi về hướng bắn tên nghênh đón.
Dương Hạo thấy Đường Diễm Diễm vừa bịt mũi dùng hai ngón tay cầm giày của hắn chạy tới, ngượng ngùng cười một tiếng nói: “Thực tế không có tý mùi nào đâu” Đường Diễm Diễm uốn éo đảo tròng mắt: “Bản thân huynh đương nhiên không ngửi thấy gì rồi”. Thực ra dù có mùi, ở nơi trống trải thế này cũng không dễ gì ngửi thấy, chỉ là con gái nhà người ta ưa sạch sẽ, từ trong lòng đã có ít chỉ trích không thích rồi. Dương Hạo không nói thêm nhiều nữa, chỉ cười ha ha, nhận lấy đôi giày vội vàng xỏ vào, thắt chặt lại dây buộc rồi ấn kiếm đứng thẳng lên.
Qua một thời gian, Mộc Khôi cưỡi ngựa vội vàng quay lại, từ xa đã nói vọng : “Đại nhân, không cần kinh sợ, người chúng ta gặp là người của bộ lạc Dã Ly Thị đang vội trên đường đi dự tiệc, hiện nay Mộc Ân đang tra hỏi lai lịch của bọn họ.” Dương Hạo dặn dò các binh sĩ vẫn đang duy trì trạng thái đề phòng vài câu, rồi bản thân tự đi về phía đấy, lên một con chiến mã, hỏi : “Đến khoảng bao nhiêu người trang phục thế nào?”
Mộc Khôi nói: “Bọn họ có hơn hai trăm người, hơn hai mươi xe lớn phục sức người Khương - Hán đều có, tiếng chuông trạm canh gác của chúng ta vang lên làm bọn họ bên đấy cũng bị kinh sợ một phen, vội vàng bố trí bảo vệ xe, chuẩn bị chiến đấu. Thuộc hạ đã cẩn thận quan sát bọn họ, có già có trẻ, còn có đàn bà phụ nữ, quần áo hỗn độn, vũ khí cũng là tạp nham.” Dương Hạo nghe xong thì thấy yên tâm, dong ngựa nói: “Đi, ta đi xem mọi người nếu đều là đến dự hội Dã Ly Thị, có thể do hiểu nhầm mà dẫn đến xung đột.” Dương Hạo và Mộc Khôi đi qua một sườn núi nhỏ, chỉ thấy đất vàng phía trước mặt có hơn hai trăm người, đa số có chiến mã, bọn họ đem theo hơn chục chiếc xe lớn và một vài phụ nữ vội vàng được bảo vệ ở giữa, cách một đoạn là nơi bắn tên, Mộc Ân một mình một ngựa, hai tay trống không đang cùng với mấy người Khương tự vệ bên ngoài nói chuyện.
“Cung làm đến đâu rồi?”
“Còn cần hai ngày nữa mới hoàn thành” Lý Hưng nói, cầm chiếc cung đã hoàn thành một nửa đặt lên trên án, cầm lên vài cái linh kiện nhỏ có tròn có vuông có dài có ngắn thoăn thoắt đặt lên trên để ngắm thử, được một lúc hắn gỡ lấy một linh kiện nhỏ có hình răng cưa ròng rọc, đổi bằng một miếng sắt khác, chỉ ra vài chỗ cần mài giũa thêm rồi hắn lập tức mang trở về gia công.
Thực ra cây cung mà Lý Hưng vẫn nói đến chính là thần tí cung sau này, chiếc cung này có thể nói là một tác phẩm đỉnh cao của vũ khí viễn chiến trong các loại vũ khí đơn binh thời vũ khí lạnh. Bởi vì vật này đến hậu thế đã sớm bị thất truyền, nên đã có rất nhiều người nghi ngờ rằng nó chỉ là một loại nỏ tiễn, nếu không thật khó tưởng tượng sẽ có một vũ khí nào có uy lực lớn đến vậy. Mà lúc này Dương Hạo lại được nhìn thấy, dù rằng chiếc cung lắp thêm rất nhiều linh kiện hỗ trợ, so với những cây cung bình thường coi như một loại vũ khí vô cùng tinh tế, nhưng nó không nghi ngờ gì vẫn chỉ là một cây cung, mà không phải nỏ.
Những linh kiện tinh xảo do Lý Hưng tạo ra đã đảm bảo cho lực căng cung ban đầu, quá trình bắn của tầm bắn, nhưng nó vừa không giống chiếc nỏ bàn thô kệch, cũng không chậm chạp như nỏ cầm tay, hơn nữa với sự hỗ trợ của các linh kiện, thậm chí còn khiến tốc độ bắn tên của nó nhanh hơn các loại cung khác, chỉ là trong quá trình bảo dưỡng so với cung bình thường yêu cầu cao hơn.
Thực tế cho dù triều đình nhà Tống đối với loại vũ khí kĩ thuật quân sự cao minh này bảo mật nghiêm ngặt, nhưng loại kĩ thuật này vẫn bị lộ ra ngoài, cho đến sau này trong sách “Vĩnh Nhạc đại điển” còn chi tiết ghi chép lại các kĩ thuật chế tạo các linh kiện của nó. Học giả Kỉ Hiểu Giải của đời nhà Thanh đã từng chính mắt nhìn thấy những bức tranh này, và còn muốn dựa vào đó chế tạo lại khôi phục thần tí cung. Nhưng đáng tiếc những bức tranh trong “Vĩnh Nhạc đại điển” chỉ là các tranh vẽ bộ phận đơn lẻ của thần tí cung, không có tranh tổ hợp lại, dựa vào sự thông minh của học sĩ Kỉ cũng chẳng thể hiểu được các bộ phận rời rạc này của thần tí cung làm thế nào lắp ráp với nhau.
Sau đó trong biến cố “tứ tạc đồ thư”, thực tế chính là một cuộc thanh trừ càn quét lớn đầu tiên được tiến hành với các tác phẩm nổi tiếng trong lịch sử, biên soạn sưu tầm tài liệu trong hơn chục năm của tứ khố, triều đình đại Thanh đem tất cả nhưng thứ họ không muốn xem hoặc không cần xem thiêu hủy thành tro. Ngoài một số ít các tư liệu nhà nông, y học và thiên văn các phương pháp tính toán có tính khoa học, được sửa đổi và ghép vào thành một bộ sách, rất nhiều các tác phẩm nổi tiếng kĩ thuật khoa học cùng một vài tiểu thuyết, kịch vui của tiền triều đều bị tiêu hủy. Các sách bị đốt tổng cộng hơn ba nghìn một trăm loại, hơn mười lăm vạn bộ, quả thực là một đại nạn trong lịch sử, kết quả đến những bức tranh về các bộ phận của thần tí cung cũng hoàn toàn biến mất, người đời sau chỉ đành đoán già đoán non.
Lúc này Dương Hạo lại được tận mắt chứng kiến chiếc cung mạnh mẽ thần kì này. Cho dù nó mới chỉ là những hình thù đơn giản nhất nhưng theo những gì mà Lý Hưng giải thích, hắn cũng sơ sơ hiểu được sức mạnh của nó. Chế tạo ra loại cung này so với các cây cung bình thường đương nhiên khó hơn rất nhiều, dù rằng nó chủ yếu vẫn sử dụng gỗ tang mộc vừa chắc vừa dẻo, nhưng còn được dùng tổ hợp phức tạp các nguyên liệu khác. Tên sử dụng cũng ngắn hơn rất nhiều so với tên bình thường, nhưng dù tên khá mảnh nhưng do lực bắn ra cực nhanh, ba trăm bước vẫn có thể xuyên thủng mục tiêu, áo giáp thông thường không thể chống đỡ được, vì thế lực sát thương của nó rất đáng sợ.
Nghe Lý Hưng giải thích, Dương Hạo đột nhiên nhớ tới một vấn đề quan trọng, vội vàng nói: “Chiếc cung này chế tạo cần bao lâu thời gian? So với các cây cung bình thường phải tiêu tốn bao nhiêu thời gian?”
Đồ tiên tiến hơn, không nhất định phải là thực dụng nhất, một vài vũ khí tiên tiến, bởi vì thời gian và tiền bạc tiêu tốn quá nhiều, làm cho kinh phí hao tổn chiến tranh quá lớn, không thể dùng trong thực tiễn.Về điểm này Dương Hạo hiểu rõ.
Lý Hưng cười nói: “Hiện này các linh kiện của cung đều phải làm từ đầu, sắt cũng phải rèn thêm, các nguyên liệu dùng chế tạo cung cũng vừa mới chuyển đến, vì thế hơi chậm. Nếu mười mấy đồ đệ của ta tới, tất cả các thứ đều chuẩn bị đủ cả, chỉ một tháng là có thể làm ra mười mấy cái cung.
Về phần tiền tài hao hụt, đương nhiên so với cung bình thường đắt hơn tám lần.”
Cái giá này so với sinh mệnh con người trong chiến tranh bị thiệt hại tương đối là đáng giá. Tốc độ chế tạo cũng nhanh rồi. Nếu phải mở rộng sản xuất, đương nhiên còn cần mở rộng người làm với số lượng lớn. Nếu có thể hình thành một nghề sản xuất lưu hành, tốc độ sẽ tăng lên nhanh hơn. Dương Hạo tính toán một hồi, rồi gật đầu.
Đúng lúc này, có người vội vàng chạy vào bẩm báo: “…..Đại nhân, Chiết phủ gửi tới mấy chục xe binh khí áo giáp lớn, Phạm Chủ Bộ đang tìm ngài khắp nơi.”
“Ừ! Mau đi thôi.” Dương Hạo vui vẻ, sau khi vội vàng rời đi, Dương Hạo đột nhiên nhớ ra một chuyện liền hỏi: “Trình Đức Huyền gần đây có động tĩnh gì khác lạ không?”
Lý Quang Lê cười nói: “Ngài an tâm hắn thì có thể làm ra chuyện xấu gì? Yên tâm được rồi, hắn ở Lô Lĩnh Châu vốn là không có chỗ dựa, đến một người có thể gọi điều động cũng không có, vốn là một tên mù điếc thôi. Hơn nữa, hắn là phán quan của Lô Lĩnh Phủ, muốn độc lập một mình đi khắp nơi chắc cũng không thể, ở đây lại khuất trong bóng tối, hắn vốn không hề hay biết. Để phòng vạn nhất, đến người phục vụ bên cạnh hắn Dương Tấn Thành cũng thường xuyên thay đổi.”
Dương Hạo gật đầu, thở dài nói: “Thực ra ta cũng không muốn cô lập hắn, nhưng trong lòng con người này trong lòng nghĩ những gì, ta thực sự không thể nào đoán được, quan hệ với người như vậy quả thật là quá mệt mỏi. Cũng đành kính cẩn từ xa. Chỉ cần hắn không đến làm hỏng chuyện của ta thì ta cũng sẽ không làm khó hắn. Sắt thép cũng bắt đầu mua bán rồi chứ?”
Lý Quang Cầm nói: “Chuyện này ngài lại càng có thể yên tâm, chúng ta nhờ cậy rất nhiều các thương gia, mua bán về bao nhiêu sắt thép cũng không bị tra ra. Còn về xây tháp, ha ha, nếu làm ăn gian lận từ bên trong lại càng dễ dàng, trừ phi có kẻ đem các tháp sắt được thích chữ của các quan gia Đại Tống ra cân đong từng cân, nếu không ai biết bên trong đó có bao nhiêu sắt? Việc này là Lâm Bằng Vũ phụ trách, người này nhanh nhẹn, mắt chỉ cần đảo một cái là có một chủ ý, Trình Đức Huyền dù được rèn luyện mấy năm kinh nghiệm quan trường nhưng lại cũng không bằng được lão hồ ly này.”
Dương Hạo cũng cười, Lâm Bằng Vũ là một trong những tâm phúc hắn tự tay bồi dưỡng. Lâm Bằng Vũ là người đến từ Bắc Hán, người thân trong gia đình đều sống ở nơi đây, kẻ tận trung có mục đích nếu muốn trọng dụng cũng hoàn toàn yên tâm. Kì thật Phạm Tư Kỳ cũng là một người trung thành, hắn là một văn nhân truyền thống, sau khi nhận chủ công, tấm lòng trung thành còn đáng tin hơn kẻ quan tâm đến lợi ích thiệt hơn Lâm Bằng Vũ. Ngươi vĩnh viễn không bao giờ cần lo lắng loại người này sẽ phản bội mình
Nhưng người này trung thành đến mức ngu xuẩn, trong mắt hắn, chuyện thế gian đen là đen, trắng là trắng vốn là không tin có màu xám ở giữa. Người như vậy, nếu giao cho hắn những việc liên quan tài vụ, trướng vụ, văn án có thể yên tâm, nhưng để hắn đi lừa người khác thì nhất định không phải loại người này. Hơn nữa nếu hắn biết Dương Hạo có những thủ đoạn không thể bày ra ánh sáng nhất định còn phải đau khổ dằn vặt khôn nguôi. Người tận kỳ tài, tài năng của hắn không thuộc phương diện này, có vài việc Dương Hạo cũng đành giấu hắn.
Suy nghĩ của Dương Hạo không sai, Trình Đức Huyền quả thật đã nhàn rỗi mấy hôm nay, nhưng hắn bản tính đã thích lao lực. Dù rằng việc công nhàn hạ nhưng hắn không để cho bản thân được rảnh rỗi. Lúc này hắn đang ngồi trong phòng mình viết tấu chương, đem tất cả những việc Dương Hạo dạo này đi lại mật thiết với phủ lại thêm những phỏng đoán của bản thân viết ra.
Sau khi bức tấu chương lần trước thông qua các thương nhân đến Lô Lĩnh châu kinh thương truyền ra, đổi lại hắn nhận được một bức khẩu dụ từ ngữ nghiêm khắc của Triệu Khuông Dận. Khẩu dụ không chỉ lột trần luận điệu của hắn, còn nói muốn hắn và Dương Hạo hợp tác vui vẻ, bảo đảm khiến Lô Lĩnh Châu ở nơi đất này được yên ổn phát triển, nếu cần thiết sẽ dùng những biện pháp mạnh, từ ngữ đối với Dương Hạo lại tỏ rõ sự tín nhiệm và dung túng.
Nhưng Trình Đức Huyền không bị Triệu Khuông Dận làm cho sợ hãi, mật tấu của hắn từng bức tiếp từng bức. Hắn không sợ Triệu quan gia trách phạt, nếu Triệu quan gia thật sự muốn bảo vệ Dương Hạo, cùng lắm là điều hắn đi, hà tất quá nặng nề chuyện trách cứ hắn. Có khi, mắng hắn càng nặng lời càng chứng minh coi mình là người của hắn, điểm này Trình Đức Huyền quá rõ.
Hơn nữa, sau lưng hắn còn có một Triệu Quang Nghĩa, Triệu Khuông Dận dành cho người huynh đệ này một tình cảm anh em ruột thịt thân thiết, chỉ cần Triệu Quang Nghĩa nói vài lời trước mặt hắn trọng lượng thế nào có thể hiểu được. Muốn diệt ai giúp ai cũng được. Huống hồ Dương Hạo gan lớn, rất nhiều vệc không phải Trình Đức Huyền hắn dùng lương tâm mà nói chuyện, bản tấu chương này được dâng lên, lại có vị Nam nha phủ đứng sau giúp sức, hắn không tin không động được đến một kẻ chẳng có lấy chút thế lực trong triều đình như Dương Hạo.
Chữ cuối cùng đã viết xong, Trình Đức Huyền thổi thổi bức thư, đem nó cẩn thận gấp lại nhét vào trong ống tay áo.
Các thương gia dưới sức ép của Đường gia phải lần lượt theo nhau bỏ chạy đến Lô Lĩnh châu, bức mật thư này của hắn rất nhanh có thể gửi đi, cứ nghĩ đến đây, trên môi hắn lại nở nụ cười lạnh lùng: “Thuốc này cũng kha khá rồi, Dương Hạo à Dương Hạo, ‘tiền nhân tài thụ, hậu nhân thừa lương’ (người trước tạo phúc cho người sau), đợi khi Lô Lĩnh châu trưởng thành thành một cây đại thụ chọc trời, lúc đó ngươi sẽ chôn xác dưới gốc cây này hay sẽ lưu lạc nơi chân trời nào đây?”
…………………………………….
Áo giáp và vũ khí Chiết phủ mang đến đủ để trang bị cho một nghìn năm trăm người. Vũ khí chủ yếu là cung, thêm vào đó có đại đao, đại phủ đều là những vĩ khí thích hợp khi chiến đấu với kẻ địch khi cưỡi trên lưng ngựa. Những bộ áo giáp này dù rằng đều là bì giáp nhưng khi mặc lên đeo thêm cây cung quả là chỉnh tề. Những đoàn dân tráng vốn vì các hình dáng màu sắc của vũ khí lập tức trông như càng rực rỡ, có vài phần khí thế của một quân nhân thực thụ. Cùng lúc này, các đoàn luyện Lô Lĩnh Châu đang tiến hành diễn tập và mở rộng, ngoài những người Hán bản địa, còn người Khương từ các vùng lân cận trong các bộ lạc triệu tập vài dân tráng đến. Những sức chiến đấu của binh sĩ hết sức khả quan, đặc biệt là ý chí kiên cường chiến đấu của họ, cho dù gặp địch mạnh cũng ít người hoảng sợ bỏ chạy, vì thế đối với bọn họ chỉ cần luyện sẽ trở thành một sức mạnh lớn.
Hơn nữa, chiêu mộ người Khương, phân tán họ cho ở cùng với những binh sĩ người Hán có thể nhanh chóng đánh tan cảm giác lạ lùng giữa những người Hán và người Khương, tăng thêm sự hòa nhập giữa họ.
Còn về phần dân tráng được chọn ra từ các dân tráng ban đầu để bảo vệ Dương Hạo khi tiến về bộ lạc Dã Ly thị, đều có một nền móng võ nghệ nhất định, trong đội ngũ các dân tráng ban đầu sức chiến đấu cũng khá mạnh, lúc này các giáo quan Chiết phủ phái đến đã thiết lập và tăng cường kỉ luật với bọn họ, rồi bồi dưỡng họ các cách tiến cách lùi theo đội hình. Thêm phần phục trang quân trang chỉnh tề, về mặt tinh thần diện mạo so với trước đây hoàn toàn không giống. Cho dù kinh nghiệm chiến đấu của họ vẫn chưa phong phú.
Dương Hạo đem theo các đội ngũ và các thương cổ trên đường đi này chủ yếu là muốn hù dọa người, những dân tráng này mỗi người đều phải mặc một chiếc áo lụa, mặc bên trong một chiếc áo khoác, khi Dương Hạo đi thăm tình hình tiến độ làm cung tiễn của Lý Hưng, đột nhiên nhớ ra một chuyện. Hắn đã từng đọc được một đoạn giới thiệu trên một tạp chí nào đó, nói rằng độ mềm dẻo đàn hồi của lụa rất cao, sau khi Thành Cát Tư Hãn đã phát hiện đặc điểm này, liền hạ lệnh tất cả các binh sĩ đều phải mặc áo tơ lụa bên trong. Từ đó áo lụa nội y trở thành một phục trang có tính bảo vệ của những tráng sĩ cưỡi ngựa Mông Cổ, tên bắn cào khó để bắn xuyên qua áo tơ, khiến cho tên dễ dàng rút ra, có thể tránh được làm vết thương lở loét do lúc rút tên ra gây thương vong, giảm được đáng kể thương vong của binh sĩ. Vì có cách nghĩ này, hắn đương nhiên cho cá binh sĩ của mình dùng nó.
Đi trên cả đoạn đường quả là một hành trình hành quân an nhàn. Bọn họ đi ven theo những dãy núi Hoành Sơn, dãy núi Hoành Sơn là phạm vi thế lực của Dã Ly Thị, trải qua một trận chiến càn quét người Khương, hiện tại các bộ lạc lớn nhỏ sống tản mạn ở dãy núi Hoành Sơn đã không dám động đến Dương Hạo.
Hạ Châu là thế lực uy hiếp duy nhất với Dương Hạo nếu muốn xuất đại quân thảo phạt hắn, thì cần phải hành quân đường xa, xuyên qua địa bàn đảng phái Lục thị. Dù rằng hiện tại đôi bên đang án binh bất động nhưng đôi bên vẫn đang trong trạng thái quan sát tình hình địch. Cuối cùng còn phải đi vào vùng đất thế lực của Ly Dã Thị, làm như vậy quá mạo hiểm.
Trong tình hình như vậy, hắn phái một đội quân nhỏ người ngựa không gây ra tiếng ồn lớn đi thăm dò, vì đại quân người ngựa không che giấu nổi tai mắt người khác, hơn nữa Dương Hạo trên đường đi về phía bộ lạc Dã Ly Thị, thời gian hành trình không định, lộ trình hành quân cũng không cố định, cho dù Hạ Châu muốn liều mạng, phái đại quân truy sát theo cũng rất khó tìm thấy tung tích hắn. Muốn ra tay chỉ có thể phục kích vào trại Lô Lĩnh. Theo cách nghĩ và sự phân tích này, Dương Hạo liền đem chủ lực đặt lại ở Lô Lĩnh Châu.
Sự tình quả nhiên như hắn dự liệu, vô cùng yên tĩnh, khi đi qua một vài bộ lạc nhỏ, vừa nhìn thấy đoàn quân dung nghiêm trang, biết là quân nhân của Lô Lĩnh Châu, những người Khương lập tức lộ ra vẻ kính sợ. Trên thảo nguyên, chỉ có kẻ mạnh mới được xưng vương, người thảo nguyên chỉ thừa nhận thực lực của kẻ mạnh, chỉ cúi đầu trước những người nắm sức mạnh.
Vẻ cung kính của bọn họ khiến cho những người Lô Lĩnh Châu vốn từ cá dân tráng thành binh sĩ cũng cảm thấy có chút tự hào trong lòng, một sự vinh dự và tự hào thuộc về người chiến sĩ.
Về kĩ năng chiến đấu bọn họ không thể chống lại những kị sĩ thảo nguyên từ nhỏ đến lớn đều sống trên lưng ngựa được, nhưng về mặt sĩ khí và tinh thần bọn họ không thua bất cứ một kẻ nào.
Mặt trời đã tà tà xuống núi, đất đai hoang vu ở đây phủ đầy màu vàng, âm thanh tiếng chuông của những con lạc đà chở nặng hàng hóa phát ra, khiến con người cảm thấy giống đang đi bộ ở trên sa mạc, mặt trời như một bánh xe đỏ huyết đang lặng lẽ trong bóng hoàng hôn không âm thanh không tiếng thở chìm khuất nơi xa xa, trước mặt lại là một dòng sông lấp lánh ánh mặt trời vàng rực rỡ.
Đội quân của Dương Hạo hạ trại ở bên cạnh dòng sông này, từng con lạc đà quỳ xuống, những hòm hàng hóa nặng nề trên lưng chúng được dỡ xuống, từng tấm lều mới được dựng lên một nửa, Dương Hạo đứng bên dòng sông, cởi đôi giày da hít thở không khí, rửa mặt bằng làn nước mát trong của dòng sông.
Đột nhiên, có một tiếng rít gió thê lương của một chiếc tên từ xa bay đến, lực bay của tên mạnh, rơi xuống trúng dòng nước sông vàng kim, biến mất không hình không ảnh, đây là thông tin của trạm canh gác gửi tới nơi họ đóng quân.
Dương Hạo đang rửa mặt bên dòng sông trừng mắt ngẩng đầu lên, nhìn thấy mấy cái tên, Mộc Ân vội đến bên chiến mã của hắn, vừa quay người liền nhảy lên ngựa, đồng thời lớn tiếng nói: “Điền Tửu, bảo vệ đại nhân!”
“Ta” Dương Hạo còn chưa kịp nói xong, Điền Tửu đang đứng bên cạnh liền ném túi nước, vội vàng chạy lại, cứ thế lùa lạc đà và hàng hóa thành một vòng, Dương Hạo lúc này chân không chạm được đất. Dương Hạo hổn hển nói: “Giày của ta……….”
Hắn quay đầu nhìn thấy Đường Diễm Diễm đang đứng ở bên cạnh dòng sông, sợ nàng bị thương vội vàng gọi: “Đường Cô nương……….”
Đường Diễm Diễm ưỡn ngực hóp bụng, tức giận nghĩ: “Sao nữa, còn muốn bản cô nương phải nhặt giày cho người hay sao? Ta nợ ngươi kiếp này à……..”
Tuy thế nghĩ đi nghĩ lại, nàng vẫn chạy đi nhặt giày cho Dương Hạo rồi hổn hển chạy theo hắn.
Những binh sĩ vừa từ dân tráng trở thành chiến sĩ được huấn luyện dưới bàn tay ma quỷ của Mộc Ân, lại đã từng trực tiếp tham gia chiến đấu, nên tốc độ phản ứng cũng rất nhanh, đương nhiên, để tránh các thương bị tên bay đến nên được xếp vào giữa những vật cản được tạo nên từ hòm hàng hóa và lạc đà, các binh sĩ tay cung tay đao đã sẵn sàng bảo vệ. Nhưng qua một lúc lâu vẫn không thấy tiếng vó hay bóng dáng người ngựa ù ù đến, Mộc Ân liền đem theo vào người thân tín đi về hướng bắn tên nghênh đón.
Dương Hạo thấy Đường Diễm Diễm vừa bịt mũi dùng hai ngón tay cầm giày của hắn chạy tới, ngượng ngùng cười một tiếng nói: “Thực tế không có tý mùi nào đâu” Đường Diễm Diễm uốn éo đảo tròng mắt: “Bản thân huynh đương nhiên không ngửi thấy gì rồi”. Thực ra dù có mùi, ở nơi trống trải thế này cũng không dễ gì ngửi thấy, chỉ là con gái nhà người ta ưa sạch sẽ, từ trong lòng đã có ít chỉ trích không thích rồi. Dương Hạo không nói thêm nhiều nữa, chỉ cười ha ha, nhận lấy đôi giày vội vàng xỏ vào, thắt chặt lại dây buộc rồi ấn kiếm đứng thẳng lên.
Qua một thời gian, Mộc Khôi cưỡi ngựa vội vàng quay lại, từ xa đã nói vọng : “Đại nhân, không cần kinh sợ, người chúng ta gặp là người của bộ lạc Dã Ly Thị đang vội trên đường đi dự tiệc, hiện nay Mộc Ân đang tra hỏi lai lịch của bọn họ.” Dương Hạo dặn dò các binh sĩ vẫn đang duy trì trạng thái đề phòng vài câu, rồi bản thân tự đi về phía đấy, lên một con chiến mã, hỏi : “Đến khoảng bao nhiêu người trang phục thế nào?”
Mộc Khôi nói: “Bọn họ có hơn hai trăm người, hơn hai mươi xe lớn phục sức người Khương - Hán đều có, tiếng chuông trạm canh gác của chúng ta vang lên làm bọn họ bên đấy cũng bị kinh sợ một phen, vội vàng bố trí bảo vệ xe, chuẩn bị chiến đấu. Thuộc hạ đã cẩn thận quan sát bọn họ, có già có trẻ, còn có đàn bà phụ nữ, quần áo hỗn độn, vũ khí cũng là tạp nham.” Dương Hạo nghe xong thì thấy yên tâm, dong ngựa nói: “Đi, ta đi xem mọi người nếu đều là đến dự hội Dã Ly Thị, có thể do hiểu nhầm mà dẫn đến xung đột.” Dương Hạo và Mộc Khôi đi qua một sườn núi nhỏ, chỉ thấy đất vàng phía trước mặt có hơn hai trăm người, đa số có chiến mã, bọn họ đem theo hơn chục chiếc xe lớn và một vài phụ nữ vội vàng được bảo vệ ở giữa, cách một đoạn là nơi bắn tên, Mộc Ân một mình một ngựa, hai tay trống không đang cùng với mấy người Khương tự vệ bên ngoài nói chuyện.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.