Quyển 14 - Chương 44: Tâm Tư Đế Vương
Nguyệt Quan
20/03/2013
Trận tuyết thứ bảy của mùa đông cũng là trận tuyết lớn nhất, mảnh đất Hà Tây quả thật giống như sơn vũ ngân xà, cảnh tượng hết sức tươi đẹp. Có điều dân bản xứ đối với cảnh tượng này cũng sớm đã quen rồi, nếu như là người từ phía nam tới nhìn thấy hàng nghìn người tuyết ở đây sẽ lập tức tán dương một tiếng.
Thời tiết như thế này, trừ một số ít người thợ săn bôn ba đi tìm những con thú nhỏ trong lớp tuyết dày đặc, thì rất ít người xuất hiện bên ngoài. Tuyết lớn như vậy không những xe khó đi qua, mà ngay cả lừa, ngựa, lạc đà cũng đi rất khó khăn, nhưng lúc này lại có một đội quân dùng tốc độ cực nhanh chạy qua hoang đảo. Mười mấy chiếc bảy xe tuyết được những con cẩu kéo đi nhanh như bay, phía trước và sau còn có mấy trăm người mặc áo da màu trắng xám đang dẫm trên chiếc ván trượt tuyết, vội vã đi về phía trước.
Một con thú nhỏ đột nhiên nghe thấy những tiếng đó từ trong gió, lập tức nhanh chóng tránh ra, chui vào trong hang tuyết, hơi thò đầu ra nhìn trộm. Đội ngũ kỳ lạ đó chạy như bay trên tuyết về phía trước, bất kể là ngồi trên xe trượt tuyết hay dẫm lên ván trượt tuyết, trên người đều mặc áo da dày cộp, mũi được che bởi chiếc khăn len dày, mặt lại dùng mạng đen che lại, trông rất cổ quái, con thú nhỏ đó chưa từng nhìn thấy người nào giống như vậy, không khỏi sợ hãi, lập tức trốn đi nhanh.
Đội quân đó đang hộ tống đám người đứng đầu quân chính Hạ Châu là Dương Hạo, Chủng Phóng, Đinh Thừa Tông trở về Ngân Châu. Các công cụ vận chuyển kỳ quái này được dùng để quân đội hành quân, ở Tây Bắc đây cũng là lần đầu tiên. Thực ra xe trượt tuyết và ván trượt tuyết không biết đã được phát minh ra từ lúc nào, ghi chép mới nhất liên quan đến những chiếc ván trượt tuyết là nó được sáng tạo ra ở Tân Cương cách đây hơn một vạn năm.
Dương Hạo chưa từng trượt tuyết, cũng không biết thời đại này ở Đông Bắc và Tây Bắc không chỉ có xe trượt tuyết mà ngay cả ván trượt tuyết cũng có. Khi hắn vừa nhớ tới chuyện này thì lại làm như mình tự nghĩ ra, truyền một người thợ mộc đến, khoa chân múa tay nói cho người đó sáng kiến của mình, người thợ mộc nghe xong một hồi, liền vỗ vỗ vào đầu nói: “Thứ mà hoàng thượng nói có phải là loại sát nạp mà người Tây Bắc chúng ta vẫn dùng khi viễn hành vào mùa đông không?”.
Dương Hạo vô cùng sửng sốt, hỏi kỹ ra mới biết thứ mà người bản địa gọi là sát nạp chính là ván trượt tuyết. Loại ván trượt này có chút giống với loại ván trượt mà những người thích trượt tuyết ở thời hiện đại vẫn dùng, ván rộng khoảng 13cm, dài khoảng một mét. Từ phần đuôi đến phần dậm chân thì thẳng, còn từ phần dậm chân đến phần mũi thì dần dần mỏng vào trong, hơi vểnh ra.
Làm nó cũng khá đơn giản, bình thường thì dùng gỗ vân sam để đẽo khắc ra, sau đó cho một nửa thân của nó vào trong lửa, lại dụng lượng nước vốn có của nó để làm cho nó cong lên, hoặc cho vào nước sôi để đun, làm một đầu cong lên, sau đó định hình, ở giữa ván dùng da bò để làm vật cố định, kích cỡ rộng tương đương với một chiếc giầy, sau đó dùng dây đai da quấn xung quanh để cố định, phía dưới đế thì dùng da thú phủ lên, bọc lại, da lông hướng ra sau, như vậy ván trượt tuyết không chỉ có thể đi trên bình địa mà còn có thể trèo lên núi hoặc xuống núi, chỉ cần nguyên liệu đầy đủ thì rất nhanh có thể chế tạo ra được một chiếc.
Người thợ mộc đó bản thân cũng là người biết trượt tuyết, ông ta đã làm một bộ rất chắc chắn và đẹp rồi biểu diễn cho Dương Hạo xem. Gậy trượt tuyết mà loại sát nạp này dùng không phải là loại hai cán, mà là một cán đan dài khoảng hai mét, hai đầu được làm bằng thép nhọn, không chỉ có thể dùng để trượt tuyết, thăng bằng, nắm vững phương hướng mà còn có thể làm một loại vũ khí.
Qua một hồi biểu diễn của hắn, Dương Hạo phát hiện ra ván trượt tuyết loại cổ xưa này tốc độ tuy không thể so sánh với ván hiện đại, nhưng lại thực dụng hơn không chỉ chắc chắn, bền, có thể trượt trên địa hình nhiều tuyết, còn có thể trượt trên những tảng gỗ thô nham thạch, gỗ bị đổ, những điều này có thể những chiếc ván trượt tuyết lưu hành phương tây không có cách nào làm được.
Dương Hạo vô cùng vui mừng, lập tức triệu tập tất cả những binh sĩ biết sử dụng lại sát nạp này để làm quan, dạy toàn quân sử dụng ván trượt tuyết, bây giờ rất nhiều binh sĩ đã có thể thành thục sử dụng loại công cụ đi săn mùa đông cổ xưa của vùng Tây Bắc này, dần biến nó trở thành một phương tiện giao thông bắt buộc phải sử dụng thành thục của quân đội Hạ Châu.
Bây giờ, Liêu Quốc và Vu Khuyết quốc đã dẫn đầu thừa nhận thành vị của Đại Hạ Quốc, phái sứ tiết đến chúc mừng, Cao Xương quốc sau khi do dự cũng biểu lộ thái độ thừa nhận...
[Thiếu một đoạn, bạn nào có đoạn này thì đóng góp nhé]
... thì nàng ta còn giỏi hơn cả trăm lần so với một người không hiểu chút nào về chính trị như Kha Trấn Ác và một người nửa đường xuất gia như Lý Nhất Đức, quả thật đã chỉnh lý mọi việc của Ngân Châu đâu ra đó, ngày càng thịnh vượng. Đối với một thần thuộc đắc ý như thế này, Dương Hạo đương nhiên cần khách khí một chút.
Long Linh Nhi nói: “Lý tri phủ và Kha phòng ngự sử vì trách nhiệm trọng đại, chưa thể đích thân xuất thành nghênh đón, đã lệnh cho thần cung đón thánh giá”. Dương Hạo lại hỏi: “Hóa ra là như vậy, khanh mau đứng dậy đi, thế mấy vị chủ tướng tọa thủ Hoành Sơn đã đến chưa?”.
“Tạ quan gia”. Long Linh Nhi đứng dậy, vẫn cung kính cúi đầu nói: “Khi thần rời thành thì bọn họ đã gần đến Ngân Châu, lúc này chắc đã tới đợi ở trong thành rồi, phía sau núi đã chuẩn bị xe, Quan gia có cần đổi xe đi không?”.
Dương Hạo liền nói: “Nếu đã như vậy thì không cần đổi xe nữa, mấy vị Dương tướng gia không thể rời đi lâu, chúng ta mau chóng về thành thôi, chiếc xe trượt tuyết này đi rất nhanh, có thể tiết kiệm được một ít thời gian, khanh cũng lên đây ngồi đi, còn mấy thị vệ này thì để cho bọn họ cưỡi ngựa từ từ về cũng được”.
“Thẩn tuân chi”. Long Linh Nhi khom người trả lời, rồi lên xe trượt tuyết, ngồi phía sau Dương Hạo. Người lái chiếc xe trượt tuyết quất roi một cái, mười mấy con đại khuyển liền kéo chiếc xe chạy như bay lên sườn núi.
Trong thành Ngân Châu, Dương Hạo nhận được sự đón tiếp của đám văn võ tướng, lập tức đi tới phủ tướng quân của phòng ngự sử. Hắn đi thẳng vào trong phòng lớn, cũng không còn để ý đến việc phải khách sáo, liền lập tức bắt đầu lên kế hoạch cho Định Nan quân ứng đối với cục diện trước mắt. Dương Hạo sau khi nói rõ tình thế trong ngoài trước mắt, Đinh Thừa Tông liền nói: “Chư vị đại nhân, từ khi quan gia đăng cơ đến nay, cống thế của Tống Quốc ngày càng mạnh, bây giờ Liêu Quốc chỉ đồng ý kết giao với nước ta, chứ không chịu cho chúng ta bất kỳ hình thức viện trợ mang tính thực chất nào, có thể dự liệu được rằng, Tống Quốc một khi biết được tin này tất sẽ càng không kiêng kỵ, áp lực chúng ta phải chịu sẽ càng nhiều hơn trước đó”.
Chúng tướng nhất thời bàn luận xôn xao, Đinh Thừa Tông cao giọng nói: “Thừa Tông khi ở Hạ Châu đã từng kiến nghị với quan gia, nước ta mới lập, thế lực còn non yếu, không thể tách rời được sự giúp đỡ của Liêu Quốc. Chúng ta có thể bỏ ra nhiều sự nhượng bộ để đổi lấy viện trợ của Liêu Quốc, nhưng quan gia đã phủ định kiến nghị này của Thừa Tông, quan gia cho rằng sự trợ giúp bên ngoài cuối cùng cũng không phải là kế lâu dài.
Nước ta tự lập có lợi cho Liêu Quốc, cho nên có chỗ nào có thể giúp được chúng ta thì chúng ta không cần yêu cầu Liêu Quốc cũng sẽ làm, việc gì không thể ra tay giúp thì chúng ta cũng không biết được phải nhượng bộ bao nhiêu thì mới nhận được sự trợ giúp của Liêu Quốc, vậy từ đó chúng ta sẽ chịu sự khống chế của Liêu Quốc, đó gọi là được không bằng mất, cho nên vẫn nên để chính chúng ta giải quyết khó khăn này”.
Viện trợ vũ lực của Liêu Quốc vốn là một nhân tố bên ngoài rất được văn võ bá quan Hạ Quốc trông đợi, nhưng những lời này của Đinh Thừa Tông đã đi trước nói cho mọi người biết rằng: “Đừng chỉ trông chờ vào Liêu Quốc, không cho Liêu Quốc nhiều lợi ích hơn thì Liêu Quốc sẽ không phát binh, quan gia cũng căn bản không nghĩ rằng sẽ cho Liêu quốc thêm lợi ích. Cầu người không bằng cầu mình, chúng ta vẫn phải tự nghĩ ra cách giải quyết”.
Người được phái đến Hoành Sơn tham dự phòng ngự tác chiến Trương Sùng Nguy hơi nhíu mày nói: “Nếu như Liêu Quốc không trực tiếp xuất binh can dự, hoặc tạo ra một số việc để kìm chế binh lực của Tống Quốc ở biên cương Liêu Tống, thì e rằng áp lực chúng ta phải chịu quá lớn, trong thời gian ngắn, phòng tuyến Hoành Sơn có lẽ sẽ không bị công phá, nhưng về mặt tiêu hao binh viên, chúng ta không thể tiêu hao được như Tống quốc”.
Dương Diên Phổ trầm giọng nói: “Không sai, nếu như không giành được sự viện trợ của Liêu Quốc, khó khăn của chúng ta sẽ tăng gấp mười lần. Nhưng, mạt tướng cho rằng quan gia không cầu viện Liêu Quốc chưa chắc đã là chuyện xấu. Dã tâm của con lang Liêu Quốc rất lớn, một khi chúng ta quá phụ thuộc vào chúng, chúng sẽ từng bước từng bước tiến tới, cuối cùng chúng sẽ dần biến chúng ta thành nước chư hầu của Liêu Quốc, còn Liêu Quốc đã đối xử như thế nào đối với các nước chư hầu thì từ tình hình của Hán quốc, chư vị đại nhân cũng có thể nhìn ra. Đến lúc đó, Hạ Quốc ta chẳng qua chỉ là một công cụ Liêu Quốc dùng để đối phó với Tống Quốc mà thôi, quân thần Hạ Quốc ta cũng sẽ trở thành mã tiền tốt của Liêu Quốc, đem hy vọng của chúng ta gửi gắm vào Liêu Quốc chẳng khác gì đưa hổ cửa trước, rước cọp cửa sau, đều có hại như nhau”.
Dương Hạo mỉm cười, gật đầu tán thưởng: “Những lời Diên Phổ nói rất đúng, dựa vào Liêu Quốc, không thể được, mà xung quanh chúng ta lại không có đồng minh cường đại khác, chúng ta chỉ có thể dựa vào chính mình, khó khăn càng thêm khó khăn, nhưng một khi qua được giai đoạn này rồi thì có thể bớt được rất nhiều hậu họa về sau. Chúng ta trong cuộc chiến tranh nhất thống Hà Tây, mỗi một kẻ địch đều mạnh hơn chúng ta, nhưng cuối cùng đều bị chúng ta lần lượt hạ xuống, trước đây có thể, bây giờ lại không thể sao?
Dùng đại nhân vật Liêu Quốc này để giúp chúng ta đối phó với Tống Quốc, hai cự nhân này lại giao thủ với nhau trong địa bàn của chúng ta, kẻ đầu tiên bị hủy diệt sẽ không phải là hai con mãnh hổ đó mà chỉ có thể là chính chúng ta, cho nên... Không thể quá kỳ vọng vào sự giúp đỡ bên ngoài, chúng ta cần tính toán một chút, phải làm thế nào để dựa vào sức mạnh của chính mình, chống đỡ qua cửa ải này”.
Tư tưởng chính đã được định ra, đám văn võ chỉ cần dựa theo tư tưởng này mà mưu tính ra kế sách, từng kế hoạch được đề ra, sau đó dưới sự thảo luận của đồng liêu từng cái lại bị bác bỏ đi, Dương Hạo thỉnh thoảng cũng xen lời, gia nhập vào cuộc biện luận của bên đồng ý và bên phản đối.
Hắn là người thống trị cao nhất của Đại Hạ Quốc, nhưng không có nghĩa hắn là một chính trị gia, quân sự gia xuất sắc nhất trong đám văn thần võ tướng Hạ Quốc, từ trước tới nay, hắn sớm đã rèn luyện cho mình một phong độ tốt giữa các thuộc hạ của mình, mọi người đều đưa ra ý kiến, biết thì nói, nói không cần phải kiêng kỵ, cho dù là lời do chính miệng hắn nói ra cũng có thể phản bác. Khi mới bắt đầu, mọi người đều có chút kiêng kỵ, nhưng bây giờ đã quen với phong cách của hắn.
Mọi người nghị luận rất lâu, Dương Hạo đột nhiên phát hiện ra Dương Kế Nghiệp hơi trầm một chút, hắn rất ít nói xen vào, chỉ khi người khác nêu ra một kiến giải mới thì hắn mới chú ý nghe một chút, một khi bị người khác đẩy ra, ánh mắt của hắn mới quay trở lại, nhìn về hướng sa bàn, khổ tư suy nghĩ. Trong lòng Dương Hạo bất giác hơi trầm xuống, Dương Kế Nghiệp là tổng chỉ huy tác chiến của tiền tuyến Hoành Sơn, cũng là tướng lĩnh hắn coi trọng nhất ở đông thành, nếu như hắn đối với trận chiến này có sự bi quan thì tất sẽ ảnh hưởng đến sĩ khí toàn quân, Dương Hạo mở lời hỏi: “Dương tướng quân cho rằng chúng ta nên ứng đối với cục diện trước mắt như thế nào?”.
Dương Kế Nghiệp nhìn chằm chằm vào chiếc sa bản trước mặt, hai mắt xuất thần, căn bản không nghe thấy lời Dương Hạo nói, Dương Diên Phổ liền lay lay cổ tay phụ thân mình, thấp giọng nhắc: “Cha, quan gia đang gọi cha đấy”.
“Sao cơ? À! Quan gia...”. Dương Kế Nghiệp định thần lại, mơ hồ nhìn Dương Hạo: “Quan gia nói gì cơ?”.
Dương Hạo thở dài nói: “Ta nói... Dương tướng quân đối với việc ứng phó với Tống Quốc có chủ ý gì không?”.
“Việc này...”. Dương Kế Nghiệp lại nhìn sa bàn, trầm ngâm một hồi nói: “Trong thời gian ngắn, Tống quân không thể công phá được phòng tuyến Hoành Sơn, nhưng tin tức Liêu Quốc chưa đồng ý tương trợ ta mà truyền ra ngoài, Tống Quốc sẽ không còn phải lo trước tính sau nữa, tất nhiên sẽ phái càng nhiều binh lực tới, xung kích chúng ta phải chịu càng lớn, cho dù chúng ta chống đỡ được thì tiêu hao tất cũng cực đại.
Đây cũng chưa phải là điều phiền phức lớn nhất, điều phải lo lắng hơn chính là thiếu đi sự kìm kẹp của đối thủ cường đại, công thế của Tống Quốc có thể liên miên không dừng, mà tránh chiến tranh lâu dài chính là kế hoạch ban đầu của quan gia. Như vậy chúng ta muốn tránh được chiến tranh lâu dài thì không chỉ đơn giản là thủ vững, chúng ta còn phải ép làm sao cho Tống Quốc vứt bỏ tiến công vũ lực, ít nhất... Cũng phải làm đại thương nguyên khí của chúng, làm cho chúng nhất thời không dám tăng binh ở Hà Tây chúng ta nữa”.
Chủng Phóng nghe xong mắt đột nhiên sáng lên, nếu nói về chiến lược thì hắn có thể nói là mạnh như thác đổ, nếu nói đến chiến sách chiến thuật cụ thể thì những ngày qua sau khi nhận được các tin tình báo về cách bài binh bố trận của hai bên địch và ta, hắn cũng thường suy nghĩ, diễn giải theo cách riêng của mình, so sánh những phản ứng, phán đoán và chiến quả thực tế với nhau, làm cho hắn biết được kinh nghiệm thực chiến của mình vẫn không bằng Dương Kế Nghiệp, lúc này nghe hắn nói, bất giác có chút kinh ngạc, vội hỏi: “Phải chăng tướng quân cho rằng chúng ta nên chủ động xuất kích?”.
Dương Kế Nghiệp hơi lắc đầu, muốn nói lại thôi, Dương Hạo không kìm được mà nói: “Chúng ta đang thảo luận quân sự ở đây, người nói không có tội, tướng quân nếu như có cách nghĩ gì thì có thể nói ra, mọi người cùng thảo luận”.
Dương Kế Nghiệp chần chừ một lát rồi lại nói: “Mạt tướng cho rằng... Chúng ta nên vứt bỏ Hoành Sơn, lùi về phía sau”.
Chúng tướng nghe xong nhất thời xôn xao lên, Đinh Thừa Tông biến sắc nói: “Địa thế Hoành Sơn cũng có thể bỏ đi không lo sao? Chúng ta còn chưa lộ bại thế mà đã chủ động thoái lui sao? Nếu như vứt bỏ Hoành Sơn, đại môn rộng mở, Tống quân thẳng đường tiến vào, là có thể tới dưới thành Hạ Châu”.
Đám người Chủng Phóng, Trương Sùng Nguy, Lý Kế Đàm cũng động dung, trưởng sử Ngân Châu Long Linh Nhi lại hơi đưa mắt nhìn về phía Dương Hạo, tâm tư nữ nhi không tranh đấu hiếu thắng như nam nhân, cho nên trực giác đầu tiên của nàng chính là Dương Kế Nghiệp vẫn còn có những lời sau đó, cho nên lập tức nhìn Dương Hạo, xem phản ứng của hắn như thế nào.
Chủng Phóng, Đinh Thừa Tông đều là những người tâm tư kín đáo, chỉ sau sự kinh ngạc chốc lát lại phản ứng lại, liền im miệng, nhìn Dương Kế Nghiệp.
Dương Hạo lúc đầu nghe thấy lời này của Dương Kế Nghiệp cũng vô cùng kinh ngạc, hiểm yếu Hoành Sơn trong lòng hắn luôn là một chỗ dựa để đối kháng với Tống quân, nếu như vứt bỏ Hoành Sơn thì đối với hắn mà nói, cảm giác của hắn cũng chẳng khác gì mấy với cảm giác của Lý Dục khi vừa nghe nói Tống quân đã bình yên vượt qua hiểm yếu Trường Giang.
Nhưng thấy thần sắc của Dương Kế Nghiệp, trong lòng hắn bất giác động: “Dương Kế Nghiệp chăng nhẽ đang nghĩ tới chiêu pháp Lâm Xung bổng đả Hồng giáo đầu chứ? Có thể sao? Thực lực Tống quân không hề yếu, chúng ta chủ động vứt bỏ Lân Phủ là để tranh quyền chủ động, tập kết ưu thế binh lực, bố trí hiểm ải, từ mặt chiến lược mà nói chính là lấy lùi để tiến, nhưng đối mặt với một đối thủ cường đại như thế này, đến Hoành Sơn cũng phải bỏ sao...”.
Hắn từ từ giơ tay lên, ngăn những tiếng xì xào của mọi người lại, căn phòng lập tức yên tĩnh, lúc này mới nói: “Dương khanh, nói lý do của khanh đi”.
Dương Kế Nghiệp nói: “Vâng, quan gia, thần cho rằng muốn thủ vững Hoành Sơn tuy gian nan nhưng chúng ta vẫn thủ được, nhưng muốn kìm hãm Tống quân, ép chúng phải dừng những bước tiến vũ lực là điều không thể. Mà theo đại kế của quan gia, lại phải nhanh chóng kết thúc những cuộc chiến tranh này, ép triều đình Tống Quốc phải nghị hòa với chúng ta, như vậy tất phải sử dụng đến biện pháp đặc biệt”.
Dương Hạo hỏi: “Phương pháp đặc biệt của khanh chính là vứt bỏ hiểm yếu Hoành Sơn, lại rút lui quân, đánh một trận đại chiến với Tống quân ở dưới thành Hạ Châu?”.
Dương Kế Nghiệp nói: “Theo chủ ý của thần, quyết chiến ở Hạ Châu cũng không phải là chủ ý hay, tốt nhất tiếp tực rút lui đến thẳng tám trăm dặm sa mạc Gobi, dẫn dụ Tống quân đến thành Linh Châu rồi quyết tử chiến một trận, như vậy là thỏa đáng nhất, chỉ có điều... Quan gia nếu đã lập đô ở Hạ Châu, căn cơ đất nước vẫn không thể xem nhẹ, nên tuyệt đối không thể lùi nữa, cho nên... Chỉ có thể lùi đến Hạ Châu rồi dừng. Có điều, tuy không có sự trợ giúp ưu thế của tám trăm dặm sa mạc Gobi, nhưng cái diệu là lúc này cũng đến chính đông rồi, dựa vào sự giúp đỡ của ông trời, miễn cưỡng cũng có thể bù lại tác dụng của sa mạc Gobi chỉ là... Khó tránh sẽ vất vả hơn”.
Trong chúng tướng đang ngồi, vẫn có rất nhiều người không hiểu được ý của Dương Kế Nghiệp, nhưng Dương Hạo, Chủng Phóng và Đinh Thừa Tông đã hiểu được mấy phần, ba người không hẹn mà cùng vươn người về phía trước, Dương Hạo vội nói: “Nói tiếp đi”.
“Vâng!”. Dương Kế Nghiệp đáp một tiếng, lúc này mới nói ra hết kế sách bạo gan mà hắn vừa mới suy nghĩ kỹ ra. Theo như kế hoạch của hắn, muốn thủ vững Hoành Sơn thì dễ, muốn ép Tống Quốc hòa lại khó. Hơn nữa, chiến sự một khi kéo dài không nghỉ, quốc lực sẽ suy yếu, căn cơ chưa vững như Hạ Quốc trải qua chiến tranh liên miên tất sẽ nảy sinh dù vấn đề, tan vỡ từ nội bộ. Muốn nhanh chóng kết thúc chiến tranh chỉ có thể hết sức gây trắc trở cho Tống quân, muốn gây trắc trở cho Tống quân thì với tình hình thực lực có hạn của mình chỉ có thể thả cho chúng vào, tạo cho mình điều kiện thắng lợi có lực hơn.
Điều kiện này chính là lợi dụng tâm lý vội vàng muốn nhanh chóng giành thắng lợi, cho tên hoàng đế Hạ Quốc to gan lớn mật dám tự xưng đế này một phen thất bại của Tống Quốc để vứt bỏ Hoành Sơn, tiến hành chiến lược rút lui. Cho dù danh tướng một đời như Phan Mỹ cũng không thể tưởng tượng được Hạ Quốc lại chủ động vứt bỏ một hiểm yếu quan trọng đối với Hạ Quốc như Hoành Sơn, huống hồ bọn họ lại còn tự rút lui, làm giống như một đám thất bại thảm hại.
Bất kể là phân tích xuất phát từ yêu cầu chính trị của triều đình Tống quốc hay là tình thế chiến trường cụ thể, hay từ cá tính của viên chủ soái Phan Mỹ thì với cục diện trước mắt, Tống quân không có khả năng sẽ cắm chặt đánh vững, từng bước cùng cố hiểm ải, thiết doanh lập trại, từng bước tiến để cho Dương Hạo có thời gian nghỉ ngơi, sự lựa chọn duy nhất của bọn chúng chính là nhanh chóng truy kích, nắm lấy cơ hội để đả kích thật mạnh, thậm chí nhất cử tiêu diệt Hạ Quốc.
Còn tác dụng phụ từ việc Tống quân nhanh chóng đẩy mạnh tốc độ tiến công đem lại chính là chiến tuyến kéo dài, binh lực sẽ phân tán, hậu cần bổ sung cho tiền tuyến trở nên càng khó khăn, đối với Dương Hạo mà nói thả cho địch tiến vào, nội bộ của hắn cũng không có mấy thành trì, bất ngờ thành trì bị mất vào tay địch, gây nguy hiểm cho căn cơ quốc gia, bộ lạc thất thị Đảng Hạng bất cứ lúc nào cũng có thể tiến vào gây họa.
Chỉ cần lấy cứ điểm Hạ Châu để dụ dỗ chủ lực quân Tống vây thành, rồi có thể kiên trì chống đỡ được dưới sự công kích mãnh liệt của địch, khi đó tiêu hao hậu cần cực đại sẽ trở thành vấn đề đau đầu nhất của Tống quốc, lúc này Hạ Quốc lại có thể phát huy được ưu thế lớn của nó, bên ngoài vòng vây của Tống quân nó còn có một lượng lớn bộ lạc du mục, đây đều là bộ lạc du mục trên thảo nguyên mà toàn dân đều là binh, hơn nữa lại có lòng trung thành cực cao với Dương Hạo, có thể phá hoại thông tấn, tiếp tế, tiếp viện của chúng, không ngừng thi triển chiến thuật quấy nhiễu đối với Tống quân.
Mà binh đoàn Hạ Quốc của Dương Hạo cũng có thể phát huy ưu thế tác chiến của kỵ binh, bên ngoài vòng vây của Tống quân có thể thực thi phản bao vây, thanh đông kích tây, vây điểm đánh viện, vận động tác chiến, phá hủy tuyến viện trợ, kẹp cứng Tống quân ở giữa. Mùa đông khắc nghiệt còn một khoảng thời gian rất dài mới qua, trong thời gian này đường viện trợ của Tống quốc bị cắt đứt, sĩ khí sa sút thì chính là lúc bọn họ bắt đầu phản kích toàn diện. Dưới sự kiêng dè của Tống quốc đối với Liêu Quốc, một trận toàn thắng của Hạ Quốc cũng đủ ép Tống Quốc tạm dừng áp sát vũ lực với Hạ Quốc.
Khi Dương Kế Nghiệp nói xong kế hoạch của mình, Đinh Thừa Tông là người đưa ra phản đối đầu tiên, hắn biết kế hoạch bạo gan của Dương Kế Nghiệp không phải không có khả năng thực hiện, nhưng lấy tiền thành làm mồi dụ, lấy hoàng đế Đại Hạ Dương Hạo làm mồi, nguy hiểm như vậy không thể chấp nhận được, một khi thất bại, hậu quả thật chỉ nghĩ cũng biết, chỉ cần có một tia hy vọng, hắn tuyệt sẽ không đồng ý dùng tới chủ ý mạo hiểm này.
Chủng Phóng cũng phản đối kế hoạch này, lý do đại thể cũng giống Đinh Thừa Tông, lấy hoàng đế ra để làm mồi sao? Quả thật là đại nghịch bất đạo, Dương Kế Nghiệp chỉ suy nghĩ đến chiến thắng mà hoàn toàn quên mất hoàng đế có tác dụng trọng đại như thế nào với một đế quốc, cho dù là mất đi Hoành Sơn, mất đi Hạ Châu, Hạ Quốc vẫn còn hơn mười châu đến thẳng Ngọc Môn quan, nó vẫn là một quốc, nhưng nếu để mất hoàng đế thì...
Đối mặt với sự chỉ trích của văn võ bá quan, Dương Kế Nghiệp cười khổ nói: “Chúng ta có thể đi trước chuẩn bị, bố trí lại một lượt thành Hạ Châu để nó kiên cố vững trãi hơn, thần nhiều năm thủ ngự thành trì rất có tâm đắc. Với khí giới công thành bây giờ và chiến thuật công thành của Tống quân, chỉ cần để thần bố trí ổn thỏa, thần có rất nhiều phần nắm chắc có thể chống đỡ lại sự tiến công của Tống Quốc, bảo đảm Hạ Châu sẽ không bị mất, thần có chủ ý bạo gan này cũng là vì đã suy nghĩ đến sự an nguy của quan gia”.
Lý Kế Đàm nói: “Không được, ta phản đối, tuy Dương tướng quân thiện thủ thành, nhưng cẩn thận mấy cũng có sơ sót, lấy quan gia và đô thành ra làm mồi nhử, vạn nhất thất thủ, chúng ta không thể chống đỡ nổi đâu”.
Dương Diên Phổ nói: “Ngài cũng biết Tống Quốc khó đối phó như thế nào? Phan Mỹ đánh giỏi như thế nào? Hạ Quốc ta mới lập, binh nhỏ tướng yếu, căn cơ yếu mỏng, nếu như không mạo hiểm thì sao có thể giành được kỳ thắng? Đây gọi là chết trước sống sau”.
Hai bên tranh luận không thôi, Dương Hạo ngồi bên trên nghe ý kiến của mọi người lại không nhúc nhích gì, trông sắc mặt rất bình tĩnh, nhưng trong lòng lại nổi sóng ầm ầm: “Có phải hắn muốn đánh một trận bảo vệ chiến Moscow sao? Dương Kế Nghiệp có thể trở thành một Zhukov thứ hai sao? Hạ Châu có thể trở thành Waterloo của ta sao?”.
Đang trầm ngâm suy nghĩ, đột nhiên Chủng Phóng ngăn sự tranh luận hai bên lại, quay sang nói với Dương Hạo: “Quan gia, kế hoạch này của Dương tướng quân tuy có khả năng thành công, nhưng quá mạo hiểm, theo thần thấy chúng ta chi bằng làm thử một phen, tranh thủ để cho Liêu Quốc gia tăng áp lực với Tống Quốc, sự tồn tại của chúng ta đối với Liêu Quốc cũng có ý nghĩa trọng đại, bọn họ sẽ không ngồi yên bỏ mặc, chúng ta chỉ cần bỏ ra chút nhượng bộ thì có thể đổi lấy sự tương trợ của họ”.
Dương Hạo lắc đầu, trầm ngâm một lát nói: “Không, đối với Liêu Quốc chỉ có thể đưa ra những điều kiện hoàn toàn bình đẳng, không thể lấy hy sinh chủ quyền để đối lấy bất kỳ sự trợ giúp nào, cho dù là sự nhượng bộ nhỏ, điều này quan hệ trọng đại đến căn cơ quốc gia”.
Hắn dừng lại một lát, đột nhiên ngẩng đầu lên, trầm giọng nói: “Hãy làm theo kế sách mà Dương tướng quân đã nói, lập tức tăng cường hàng phòng ngự Hạ Châu, hội kiến thủ lĩnh các bộ lạc, đi trước chuẩn bị tất cả các biện pháp ứng biến, sau đó Dương tướng quân sẽ dẫn chư quân Hoành Sơn chấp hành thoái lui. Sau khi bố cục hoàn thành, lập tức triển khai tác chiến lưỡng tuyến nội ngoại, chờ đến lúc điều kiện phản công chín muồi!”.
Hắn đứng dậy, lại nói: “Hạ Châu là trung tâm của Định Nan ngũ châu, lại không phải là trung tâm của Hà Tây, trẫm bây giờ có được cả Hà Tây, Hạ Châu đã không thích hợp làm đô của Hạ mẫu, trầm sớm đã có ý lập Hưng Châu làm quốc đô. Tây Ngự Ngọc Môn Hưng Châu, nam khống Tiêu quan, bắc kháng Hạ Lan, đông kẹp Hoàng Hà, xung quanh địa thế thuận lợi cho việc bảo vệ Định Nan tứ châu, ở đó bắc có đại cốc Uyết Bảo Đại, tây có sa mạc Đằng Cách Lý, đông có sa mạc Mao Ô Tố, nam có Thanh Đồng Giáp, dễ thủ khó công, hơn nữa vì dựa vào núi Hạ Lan và Hoàng Hà nên môi trường, thời tiết rất thích hợp, gần hơn thì đó cũng là quê hương thóc gạo của Hà Tây, thích hợp nhất để định đô thành. Vì vậy, trẫm muốn định đô ở Hưng Châu, Đinh đại nhân lập tức bắt tay vào chuẩn bị, chuyển tất cả gia quyến của trẫm và những nhân vật quan trọng ở Hạ Châu cùng tiền bạc của Hạ Châu ta đến Hưng Châu trước”.
Dương Hạo muốn đưa tất cả thê tử đến Hưng Châu, đó chính là đã muốn chấp nhận kế hoạch của Dương Kế Nghiệp, một mình mình ở lại Hạ Châu đấu một trận. Thấy hắn đã định, Đinh Thừa Tông cũng không phản bác nữa, chỉ nặng nề đồng ý. Sau khi Dương Hạo thương lượng về mặt chiến thuật với chúng tướng, sắp xếp rõ ràng tất cả, liền nói: “Chư tướng Hoành Sơn lập tức quay trở về, đợi trẫm ở đây bố trí hoàn thành sẽ lập tức bắt đầu chấp hành thoái lui!”.
Chúng tướng đồng thanh hô vang rồi lập tức tản đi, Đinh Thừa Tông và Chủng Phóng cùng nhau đi ra khỏi đại đình, thấy chúng văn võ đã vội vã tản đi, Đinh Thừa Tông liền xua xua tay, bảo thị vệ của hắn dừng bước, nhẹ nhàng lui đi, Đinh Thừa Tông quay đầu nói: “Chủng đại nhân, ta luôn cảm thấy... Quan gia hình như có tính toán khác”. Chủng Phóng cười nói: “Tâm tư đế vương tốt nhất là chớ phỏng đoán lung tung”.
Đinh Thừa Tông cười nói: “Không phải ta đoán tâm tư quan gia mà chúng ta là những người phụ tá quân vương, luôn muốn làm đến mức tốt nhất, hoàn mỹ nhất. Ý của ta là nói thái độ của quan gia với Liêu Quốc có vấn đề”.
“Sao cơ?”. Chủng Phóng bước lại, đẩy chiếc xe đẩy của hắn, vừa đi vừa hỏi: “Đinh đại nhân có kiến giải gì?”.
Đinh Thừa Tông trầm ngâm nói: “Ngày trước khi quan gia mưu đồ Ngân Châu, đã từng cùng tác chiến với người Liêu. Tuy nói lúc đó mỗi bên đều có mục đích riêng, người Liêu muốn bắt Khánh vương, Quan gia muốn đoạt Ngân Châu, nhưng người Liêu khi bắt được Khánh vương liền rời khỏi đó luôn, không nhân cơ hội mà tiến thành lùng sục cướp của cải, tác phong làm việc của chúng không giống như chúng vẫn thường làm, có thể thấy, quan gia và người Liêu có một quan hệ tương đối mật thiết.
Bây giờ quan gia tự lập xưng đế, Hà Tây độc lập một phương, tuy đối với người Liêu mà nói là việc rất tốt với chúng, nhưng thực ra quan gia không cần phải bỏ ra cái giá cực đại, bất kể là xuất phát từ lợi ích cá nhân hay là vì mối giao tình năm xưa, chỉ cần nhượng bộ một chút thì muốn Liêu Quốc tương trợ không phải là khó. Điều làm người ta không hiểu được là quan gia đối với việc mượn sự trợ giúp từ Liêu Quốc lại hình như hoàn toàn không có chút thành ý nào.
Bất kể là thực lực trước mắt của Hạ Quốc hay là quẫn cảnh bây giờ, sự giúp đỡ của Liêu Quốc đều vô cùng quan trọng. Nhưng quan gia lại chỉ cho một chút ưu đãi trên một số loại hàng hóa trong tất cả các điều kiện mà quốc thư nhắc tới. Liêu Quốc lớn mạnh như vậy, những lợi ích nhỏ nhoi đó có thể được họ để ý tới không? Quan gia chính là không chịu nhượng bộ nửa bước, ngài có cảm thấy có chút kỳ lạ không?”.
Chủng Phóng cũng không hiểu nổi tại sao Dương Hạo lại có thái độ đó với một đại quốc duy nhất chịu giúp đỡ Hạ Quốc, cũng có thực lực tương trợ Hạ Quốc, suy đi tính lại, hắn chỉ có thể cười khổ nói: “Có lẽ quan gia dưới sự khống chế của Tống Quốc đã phải đi những bước rất gian nan, cho nên không muốn lại bị một cường quốc khống chế quá sâu nữa”.
Đinh Thừa Tông chậm rãi lắc đầu, hắn rất hiểu con người Dương Hạo trước kia, khi có thể mượn thế thì Dương Hạo tuyệt đối sẽ không do dự, đặc biệt là vào thời khắc khó khăn như thế này, hắn sao lại không chịu mượn thế, nhất định là đã có suy tính nhiều hơn, sẽ nhận được lợi ích lớn hơn, nhưng... Đây rõ ràng là chuyện hai bên không thể cùng thu được kết quả tốt, lợi ích này rốt cuộc là ở đâu?
Đinh Thừa Tông trăm suy ngàn nghĩ vẫn không thể lý giải nổi, hắn phát hiện mình thật sự càng ngày càng không hiểu được đệ đệ mình đang nghĩ cái gì nữa.
Đợi khi chúng văn võ lần lượt lĩnh chỉ lui đi, Dương Hạo đứng trong phòng nhăn mày suy nghĩ một hồi, liền lên tiếng gọi: “Ám Dạ!”.
Một người mặc áo xám lên tiếng rồi chạy vọt vào, khom người chờ lệnh, Dương Hạo liền sai bảo: “Lập tức thông báo cho bên Ba Thục, dừng cung ứng lương thực cho Nghĩa Quân, nói với Tiểu Lục đến ngày lễ Táo quân thì phải đánh thành đô cướp lương thực, thanh thế càng lớn càng tốt”.
Người áo xám đó đáp một tiếng rồi quay người chạy đi, Dương Hạo lẩm bẩm nói: “Ai nói hoàng đế không được để binh đói? Lúc cần đói thì cũng phải cho đói”.
Hắn chắp hai tay ra đằng sau, bước mấy bước lại nghĩ: “Kế này của Dương Kế Nghiệp tuy nguy hiểm nhưng lại càng có thể giảm bớt tiêu hao hơn cách lấy cứng chọi cứng của ta, đây chính là cầu phúc trong họa, khi cần mạo hiểm thì phải mạo hiểm, bên Ba Thục cũng cần Tiểu Lục phối hợp một chút, bên Biện Lương có cần...”.
Suy nghĩ kỹ lại, hắn liền lắc đầu: “Không được, bên Biện Lương là nước cờ ngầm, bây giờ không thể động, vẫn chưa tới lúc, vẫn chưa tới lúc...”.
*
* *
Biện Lương, trên đường lớn Đông Thập Tự có một quán rượu tên là Mỹ Nhân tửu phường, chủ tiệm tên là Đinh Mỹ Nhân, là một thiếu phụ mỹ miều khoảng hơn hai mươi tuổi, và có một người phụ tá. Căn tiệm này không lớn, nhưng ở nơi tấc đất tấc vàng như đường Đông Thập Tự mà một thiếu phu nhân có thể một mình mở một tiệm thì gia cảnh cũng coi như là khá giả.
Tiệm này không bán đồ ăn, chỉ bán mỗi rượu, ở một khu vực buôn bán tấp nập náo nhiệt như thế này mà lại chỉ buôn bán đơn điệu như vậy, làm ăn đa phần là không tốt. Nhưng phu nhân tiệm rượu này lại là một tuyệt sắc giai nhân, lông ngài mày phượng, khuôn mặt trái xoan như phù dung, da trắng mịn như ngọc, cơ thể uyển chuyển nhiều dáng điệu. Chất lượng rượu của tiệm này cũng tốt, tuyệt đối không thêm nước, cũng chưa bao giờ bán rượu bỏ nhiều men, nên có rất nhiều tửu khách tới chiếu cố.
Trong thành Đông Kinh vô lại rất nhiều, những kẻ háo sắc trong đám thực khách háo rượu đương nhiên cũng nhiều, Đinh Mỹ Nhân khi vừa mới mở tiệm, thì tên vô lại Đầu Tử Hùng trên đường Đông Thập Tự đã đến đầu tiên để xem, rồi loan truyền ra ngoài rằng mỹ nhân này là thứ độc chiếm của hắn. Nhưng hắn chỉ vừa mới trêu ghẹo được một lần, vẫn còn chưa kịp động chân động tay thì đã bị mấy hán tử cao lớn ở cấm quân treo lên đánh cho một trận.
Những hán tử cấm quân đó đánh mỏi tay mỏi chân rồi cất bước đi, đám huynh đệ vô lại của hắn lúc này mới có gan đi tới thả hắn xuống, khi đó Hùng lão đại lưỡi thè ra rất dài, mặt sưng lên dày ba thốn, cũng không biết mấy tên cấm quân đó đã dùng hình phạt gì với lưỡi mà lưỡi tuy chưa có bị rút ra nhưng từ đó lại biến thành tên lưỡi to, điều tồi tệ hơn là hai chân của hắn bị đánh gẫy hẳn.
Mới đầu thì đám huynh đệ ngày xưa còn kính hắn ba phần, nhưng lâu ngày chẳng còn ai để ý đến hắn nữa, lão đại mới của đường Đông Thập Tự là Chu Tráng Thự chê lão đại trước đây chướng mắt, cũng sợ hắn gây họa cho mình nên đã đá hắn đi xa. Từ đó Hùng lão đại chỉ có thể chống cây gậy mà đi xin ăn ở nơi khác. Sau này, có một vị tướng quân anh tuấn thường đến tửu lâu này thăm, lâu đần mọi người cũng biết tướng quân đó tất có tương hảo với nàng chủ quán, vì thế càng không có người nào đám đến gây sự nữa.
Lúc này, trong thành Đông Kinh tuyết rơi dày đặc, tuyết phù khắp trời, tuyết dày lên làm cho khách nhân của quán rượu cũng ít đi, Đinh Mỹ Nhân liền dặn dò xuống dưới: “Tiêu Minh, tuyết rơi nhiều như vậy không có khách đến cửa đâu, đóng cửa lại rồi ngươi về trước đi”.
Tiểu nhị ngày nghe thấy trưởng quầy bảo đóng cửa liền vui mừng đứng dậy dọn dẹp, vừa mới lắp được hai tấm gỗ vào cửa thì bên ngoài có một người mặc y phục cấm quân chạy như bay tới, bước vào cửa vừa phủi tuyết trên đầu vừa cười nói: “Sao thế, biết ta tới liền đóng cửa nghỉ bán à?”.
Tiểu nhị vừa nhìn thấy liền gật đầu khom người cười bồi nói: “Ôi chà, La thái úy, không phải là tuyết rơi quá nhiều sao, trưởng quầy bảo nghỉ sớm”.
Bà chủ thấy hắn đến liền ra nghênh tiếp, vừa dùng khăn lông giúp hắn phủi tuyết trên đầu, vừa sẵng giọng nói: “Tuyết rơi dày đặc như vậy ngài còn đến đây làm gì”.
Tiểu nhị đó rất lanh lợi, thấy hai người nói chuyện liền vội vã lắp hai cánh cửa khác vào rồi chạy biến đi. Không ngờ ở tửu lầu đối điện lại có hai lão giả bước trầm ổn đi ra, sắc mặt an tường, không giận mà trông cũng có uy, rất có khí thái quyền quý của đại nhân vật. Hai người ấy chính là La Công Minh và Sở Chiêu Phụ, hai người bước ra khỏi tửu lâu, chắp tay cáo biệt. Sở Chiêu Phụ xoay người ngồi lên chiếc kiệu nhỏ của mình, người hầu khiêng kiệu lên, đi nhẹ và nhanh rời khỏi đó.
La Công Minh lại vẫn chưa đi, lão nhân gia mắt không hoa, vừa rồi cảnh La Khắc Địch bước vào trong tiệm rượu đã bị hắn nhìn thấy, chỉ là ngại Sở Chiêu Phụ đang ở bên cạnh, không tiện lộ ra hình sắc, đợi khi Sở Chiêu Phụ đi rồi thì thấy tiểu nhị đó đóng cửa chỉ để lại một lối đi nhỏ rồi chạy biến mất. La Công Minh không khỏi nhíu mày, nghi hoặc hỏi: “Khắc Địch, đó là... Vị phu nhân tiệm bán rượu đó là ai?”.
Đúng lúc có một thư sinh mặc trường sam, đầu đội mũ nhung đang đi vào trong tửu lâu, nghe thấy rõ nửa câu sau của hắn, liền quay mặt lại nhìn, thấy lão nhân gia này tuổi tuy đã cao nhưng lưng không còng, tinh thần trông minh mẫn, rõ ràng rất có dáng vẻ của quý tộc, không khỏi cười nói: “Ha ha, lão nhân gia, ông cũng phải lòng tiểu nương tử tiệm bán rượu kia rồi à?
Ha ha, ông cũng có mắt nhìn người đó, có điều ông sống đến tuổi này rồi, gân cốt cũng đã yếu đi, không thể chịu nổi sự giày vò đâu, vãn sinh có lòng tốt nói cho ông nghe một câu, tiểu nương tử đó là người thương của La đại tướng quân chỉ huy sứ mã bộ quân đô cấm quân Đông Kinh chúng ta La Khắc Địch đó, ông không dây được với người ta đâu, chỉ rước thêm họa thôi”.
Thư sinh này không phải ai khác, chính là kẻ đã bị liên lụy vì Lý Dục mà cả nhà bị điêu tàn, bất đắc dĩ đã chuyển đến đây ở Tiêu tú tài Tiêu Thư Hữu. Tiêu tú tài khi đó nhìn thấy đại hán cấm quân xử lý Hùng lão đại, thấy đó là chuyện hay liền đi khắp nơi dò hỏi, biết La Khắc Địch là thường khách, lại biết được thân phận của La Khắc Địch nên thông qua một lượt tuyên truyền của hắn rằng mỹ nhân tửu phường ở đường Đông Thập Tự đã trở thành Mỹ thái công không thể gây sự, nên cũng không có hán nhân nào đến sinh thị phi ở quán nàng nữa.
La Công Minh vừa nghe lập tức đại nộ, tên tiểu tử của hắn cũng không còn nhỏ tuổi nữa, sớm đã qua tuổi hôn phối rồi, nhưng khi hắn nói đến chuyện thành thân với nó thì tên khốn đó lại kiên quyết không chịu, thoái thác hết lần này đến lần khác, muốn nạp hai phòng tiểu thiếp cho nó nó cũng không chịu. Lão La còn tưởng rằng con trai mình đang nắm đại quyền, muốn thận trọng nghiêm khắc với mình, nhất lòng vì tiền đồ, không ngờ... Không ngờ nó lại mê mẩn vì một nương tử bán rượu, nghe người ta nói chẳng phải là đã muốn lấy người ta về nhà rồi sao? “Khắc Địch nó... La gia ta sao lại sinh ra một đứa nghịch tử như thế chứ?”.
Tiêu tú tài nói xong hai câu, thấy lão nhân gia mặt mày nhăn nhó, còn cho rằng ông ta bị lời nói của mình làm cho sợ hãi, sợ bị đám hán tử cấm quân đánh chết, Tiêu tú tại tự cảm thấy là hảo sự liền cười ha ha, lắc lắc người bỏ đi.
La Công Minh đứng đó vừa bực vừa vội, lúc này chỉ muốn sai hạ nhân đến tửu phường đó đập cửa vào, lôi cái tên nghịch tử khốn kiếp đó ra, nhưng thấy cửa đóng gần hết, không biết đứa con trời đánh với nương tử mỹ miều đó đang làm chuyện gì mờ ám trong đó, vạn nhất có cử động bất nhã gì, một khi xông vào sẽ để cho tất cả mọi người ở đường này nhìn thấy cha bắt con gian dâm, phụ tử hai người đều là quan viên quyền cao chức trọng, việc này mà truyền ra ngoài thì lão La gia còn mặt mũi nào nữa.
Lão La liền thổi râu tức khí, xoay người bước lên kiệu của mình. Lão La ngồi xuống kiệu, vén tấm mành cửa ra, tức giận nói: “Đợi Khắc Địch trở về, bảo nó lập tức đến gặp lão phu!”.
Cửa tiệm vừa đóng, nụ cười thoải mái trên mặt La Khắc Địch lập tức biến mất, hắn xoa tay vào nhau, ngồi xuống bên bếp lửa, đưa tay ra hơ hơ cho ấm.
“Có tâm sự gì à?”. Đinh Ngọc Lạc nhẹ nhàng hỏi.
La Khắc Địch lắc đầu nói: “Nàng cũng ngồi xuống đi”.
Đinh Ngọc Lạc mỉm cười, kéo một chiếc ghế lại, hai tay nhấc tà váy sang một bên và ngồi xuống, lặng yên nhìn hắn, mấy năm nay rõ ràng là La Khắc Địch đã trưởng thành hơn nhiều, đại quyền trong tay làm cho khí chất của hắn cũng có sự biến hóa rất lớn, ánh mắt nghiêm nghị hơn, rất có dáng vẻ không giận mà cũng uy nghiêm.
Trong điếm trở nên tĩnh mịch, ánh sáng vắng lặng chiếu xuyên qua khe cửa, chiếu vào khuôn mặt Đinh Ngọc Lạc. Đinh Ngọc Lạc vẫn xinh đẹp như xưa, chỉ có điều giờ thêm mấy phần mùi vị nữ nhân, vô cùng quyến rũ.
“Uống chén rượu cho ấm người”. Đinh Ngọc Lạc nói nhẹ, giơ cánh tay ngọc ngà ra, rót cho hắn một chén rượu rồi nhẹ nhàng đưa tới trước mặt hắn, ánh mắt La Khắc Địch bất giác nhìn vào cánh tay nàng, một đôi tay ngọc ngà mịn màng, ngón út lại hơi cong lên giống như một đóa u lan, chỉ nhìn vào tay đã làm cho người ta thấy mê mẩn vậy mà còn được ngồi bên cạnh mỹ nhân, mùi thơm từ người nàng tỏa ra như làm bừng tỉnh bầu trời nhân gian.
Bông tuyết tuôn rơi, những tiếng chửi mắng của người bán hàng truyền từ xa tới càng rõ ràng hơn trong màn tĩnh lặng. Tất cả sự u sầu trong lòng La Khắc Địch đều biến mất trong sự dịu dàng của nàng, hắn nhẹ ôm lấy eo nàng, nhẹ vuốt tóc nàng, nghe tiếng trống ngực của nhau. Xuất thần một hồi lâu, La Khắc Địch liền nói: “Liêu Quốc đã cùng Hạ Quốc ký giao bang, có điều chỉ là bang giao cơ bản nhất, cũng chưa đồng ý cho Hạ Quốc bất kỳ sự trợ giúp nào, quan gia nghe được tin này vô cùng vui mừng, đã hạ chiếu điều thêm ba vạn cấm quân của đạo Hà Bắc tăng viện cho Hà Tây. Đồng thời lệnh cho Phan tướng quân, bảo ngài ấy nắm bắt lấy thời cơ, nhanh chóng đột phá phòng ngự Hoành Sơn, đánh đến thẳng trung tâm Hạ Châu, ta nghĩ... nàng chắc cũng biết chứ?”.
Hắn đương nhiên biết, Đinh Ngọc Lạc mai danh ẩn tính, mở tiệm ở Biện Lương tuyệt đối không phải chỉ là để có thể thường xuyên gặp hắn. Khi Dương Hạo vẫn là đại nguyên soái Hà Tây Lũng Hữu, hắn rất vui vì Đinh Ngọc Lạc tới, còn về việc Đinh Ngọc Lạc đến Biện Lương có phải có nhiệm vụ đặc biệt gì hay không thì hắn không quá quan tâm, chưa cần nói đến một người nắm trong tay trọng binh xưng bá một phương như Dương Hạo mà ngay cả một số người ở các địa phương có chút thực quyền, ai mà lại không cắm một số tai mắt phụ trách do thám tin tức nhất cứ nhất động của triều đình chứ?
Nhưng đến khi triều đình phát binh tới Lân Phủ, tiến công Hoành Sơn, Dương Hạo lại ngang nhiên xưng đế, quan hệ xấu đi rất nhiều. Nếu như để triều đình biết hắn có tư tình với đại trưởng công chúa Hạ Quốc, hơn nữa biết rõ đối phương ở Biện Lương mà lại còn giấu giếm thì La Khắc Địch hắn lập tức phải biến từ thống soái cấm quân cao cao tại thượng thành tù nhân. Nhưng cho dù hắn biết hậu quả nghiêm trọng như vậy nhưng hắn cũng không muốn Đinh Ngọc Lạc có chút mảy may tổn thương nào. Ngoài việc hắn có một mối tình thâm sâu với Đinh Ngọc Lạc ra thì mặt khác cũng bởi vì hành động của Dương Hạo bây giờ vẫn chưa dính dáng đến nàng mật thám trong lòng của hắn, đồng thời hắn đối với vị hoàng đế Triệu Quang Nghĩa này cũng thiếu chút hiếu trung, người hắn trung thành là thiên hạ Triệu thị, chứ không phải đại biểu cho một người nào đó của thiên hạ này.
Đinh Ngọc Lạc nhẹ thở dài một tiếng, trên trán hiện lên sự ưu lo, lẩm bẩm nói: “Đúng vậy, thiếp biết rồi, có điều... Nhị ca nếu đã dám tự lập quốc tất nhiên cũng đã suy nghĩ đến phản ứng của quan gia, thiếp nghĩ nhị ca sẽ làm được, huống hồ bây giờ đã là hàn đông, Phan tướng quân muốn có được tiến triển lớn cũng không phải là điều dễ dàng. Thiếp chỉ lo lắng... Chàng sẽ không bị phái đi Hà Tây chứ?”.
La Khắc Địch lắc đầu: “Quan gia đối với lão tướng tiền triều không tín nhiệm cho lắm, nếu không cũng sẽ không phá cách đề bạt một thiếu tướng trẻ tuổi như ta mà không nể mặt các lão tướng tiền triều, khi ngài ấy chưa ổn định đế vị trong năm, sáu năm thì sẽ không dễ dàng điều ta đâu, trừ phi... Ngài ấy muốn ngự giá thân chinh, ta mới phải đi theo”.
Đinh Ngọc Lạc thở phào nhẹ nhõm: “Như thế thì tốt rồi, thiếp thật sự sợ chàng sẽ chém giết với nhị ca thiếp trên chiến trường, khi đó hai quân trận tiền gặp mặt. Ôi! Thiếp thật không biết phải làm thế nào”.
o O o
File ảnh
http://ne3.upanh.com/b1.s7.d3/59f458b4ac70544f5aa641df0fb95f3c_36782083.chuong44 tamtudevuong1.gif
http://ne3.upanh.com/b4.s20.d1/c45cc76eceee51a75554f199f5d6b04e_36782093.chuong44 tamtudevuong03.gif
http://ne7.upanh.com/b3.s13.d3/513133c566884813029311a203a8d468_36782097.chuong44 tamtudevuong04.gif
http://ne1.upanh.com/b2.s6.d4/e131de1a36e44e61473badcbd884dfe8_36782101.chuong44 tamtudevuong05.gif
http://ne5.upanh.com/b2.s2.d4/6be4ad1517fb9d2482179dd8934c661f_36782105.chuong44 tamtudvuong06.gif
http://ne6.upanh.com/b2.s12.d1/5eb8274a1bb2547f5bfcc443246aeda6_36782116.chuong44 tamtudevuong07.gif
http://ne3.upanh.com/b4.s7.d2/4c830da95fdd5aced285e07db9468914_36782123.chuong44 tamtudevuong08.gif
http:///imagetruyen/images/764d5f3e3dae3aea26bc38d0c.gif
http:///imagetruyen/images/537dc746df3d69529ecdb2510.gif
Thời tiết như thế này, trừ một số ít người thợ săn bôn ba đi tìm những con thú nhỏ trong lớp tuyết dày đặc, thì rất ít người xuất hiện bên ngoài. Tuyết lớn như vậy không những xe khó đi qua, mà ngay cả lừa, ngựa, lạc đà cũng đi rất khó khăn, nhưng lúc này lại có một đội quân dùng tốc độ cực nhanh chạy qua hoang đảo. Mười mấy chiếc bảy xe tuyết được những con cẩu kéo đi nhanh như bay, phía trước và sau còn có mấy trăm người mặc áo da màu trắng xám đang dẫm trên chiếc ván trượt tuyết, vội vã đi về phía trước.
Một con thú nhỏ đột nhiên nghe thấy những tiếng đó từ trong gió, lập tức nhanh chóng tránh ra, chui vào trong hang tuyết, hơi thò đầu ra nhìn trộm. Đội ngũ kỳ lạ đó chạy như bay trên tuyết về phía trước, bất kể là ngồi trên xe trượt tuyết hay dẫm lên ván trượt tuyết, trên người đều mặc áo da dày cộp, mũi được che bởi chiếc khăn len dày, mặt lại dùng mạng đen che lại, trông rất cổ quái, con thú nhỏ đó chưa từng nhìn thấy người nào giống như vậy, không khỏi sợ hãi, lập tức trốn đi nhanh.
Đội quân đó đang hộ tống đám người đứng đầu quân chính Hạ Châu là Dương Hạo, Chủng Phóng, Đinh Thừa Tông trở về Ngân Châu. Các công cụ vận chuyển kỳ quái này được dùng để quân đội hành quân, ở Tây Bắc đây cũng là lần đầu tiên. Thực ra xe trượt tuyết và ván trượt tuyết không biết đã được phát minh ra từ lúc nào, ghi chép mới nhất liên quan đến những chiếc ván trượt tuyết là nó được sáng tạo ra ở Tân Cương cách đây hơn một vạn năm.
Dương Hạo chưa từng trượt tuyết, cũng không biết thời đại này ở Đông Bắc và Tây Bắc không chỉ có xe trượt tuyết mà ngay cả ván trượt tuyết cũng có. Khi hắn vừa nhớ tới chuyện này thì lại làm như mình tự nghĩ ra, truyền một người thợ mộc đến, khoa chân múa tay nói cho người đó sáng kiến của mình, người thợ mộc nghe xong một hồi, liền vỗ vỗ vào đầu nói: “Thứ mà hoàng thượng nói có phải là loại sát nạp mà người Tây Bắc chúng ta vẫn dùng khi viễn hành vào mùa đông không?”.
Dương Hạo vô cùng sửng sốt, hỏi kỹ ra mới biết thứ mà người bản địa gọi là sát nạp chính là ván trượt tuyết. Loại ván trượt này có chút giống với loại ván trượt mà những người thích trượt tuyết ở thời hiện đại vẫn dùng, ván rộng khoảng 13cm, dài khoảng một mét. Từ phần đuôi đến phần dậm chân thì thẳng, còn từ phần dậm chân đến phần mũi thì dần dần mỏng vào trong, hơi vểnh ra.
Làm nó cũng khá đơn giản, bình thường thì dùng gỗ vân sam để đẽo khắc ra, sau đó cho một nửa thân của nó vào trong lửa, lại dụng lượng nước vốn có của nó để làm cho nó cong lên, hoặc cho vào nước sôi để đun, làm một đầu cong lên, sau đó định hình, ở giữa ván dùng da bò để làm vật cố định, kích cỡ rộng tương đương với một chiếc giầy, sau đó dùng dây đai da quấn xung quanh để cố định, phía dưới đế thì dùng da thú phủ lên, bọc lại, da lông hướng ra sau, như vậy ván trượt tuyết không chỉ có thể đi trên bình địa mà còn có thể trèo lên núi hoặc xuống núi, chỉ cần nguyên liệu đầy đủ thì rất nhanh có thể chế tạo ra được một chiếc.
Người thợ mộc đó bản thân cũng là người biết trượt tuyết, ông ta đã làm một bộ rất chắc chắn và đẹp rồi biểu diễn cho Dương Hạo xem. Gậy trượt tuyết mà loại sát nạp này dùng không phải là loại hai cán, mà là một cán đan dài khoảng hai mét, hai đầu được làm bằng thép nhọn, không chỉ có thể dùng để trượt tuyết, thăng bằng, nắm vững phương hướng mà còn có thể làm một loại vũ khí.
Qua một hồi biểu diễn của hắn, Dương Hạo phát hiện ra ván trượt tuyết loại cổ xưa này tốc độ tuy không thể so sánh với ván hiện đại, nhưng lại thực dụng hơn không chỉ chắc chắn, bền, có thể trượt trên địa hình nhiều tuyết, còn có thể trượt trên những tảng gỗ thô nham thạch, gỗ bị đổ, những điều này có thể những chiếc ván trượt tuyết lưu hành phương tây không có cách nào làm được.
Dương Hạo vô cùng vui mừng, lập tức triệu tập tất cả những binh sĩ biết sử dụng lại sát nạp này để làm quan, dạy toàn quân sử dụng ván trượt tuyết, bây giờ rất nhiều binh sĩ đã có thể thành thục sử dụng loại công cụ đi săn mùa đông cổ xưa của vùng Tây Bắc này, dần biến nó trở thành một phương tiện giao thông bắt buộc phải sử dụng thành thục của quân đội Hạ Châu.
Bây giờ, Liêu Quốc và Vu Khuyết quốc đã dẫn đầu thừa nhận thành vị của Đại Hạ Quốc, phái sứ tiết đến chúc mừng, Cao Xương quốc sau khi do dự cũng biểu lộ thái độ thừa nhận...
[Thiếu một đoạn, bạn nào có đoạn này thì đóng góp nhé]
... thì nàng ta còn giỏi hơn cả trăm lần so với một người không hiểu chút nào về chính trị như Kha Trấn Ác và một người nửa đường xuất gia như Lý Nhất Đức, quả thật đã chỉnh lý mọi việc của Ngân Châu đâu ra đó, ngày càng thịnh vượng. Đối với một thần thuộc đắc ý như thế này, Dương Hạo đương nhiên cần khách khí một chút.
Long Linh Nhi nói: “Lý tri phủ và Kha phòng ngự sử vì trách nhiệm trọng đại, chưa thể đích thân xuất thành nghênh đón, đã lệnh cho thần cung đón thánh giá”. Dương Hạo lại hỏi: “Hóa ra là như vậy, khanh mau đứng dậy đi, thế mấy vị chủ tướng tọa thủ Hoành Sơn đã đến chưa?”.
“Tạ quan gia”. Long Linh Nhi đứng dậy, vẫn cung kính cúi đầu nói: “Khi thần rời thành thì bọn họ đã gần đến Ngân Châu, lúc này chắc đã tới đợi ở trong thành rồi, phía sau núi đã chuẩn bị xe, Quan gia có cần đổi xe đi không?”.
Dương Hạo liền nói: “Nếu đã như vậy thì không cần đổi xe nữa, mấy vị Dương tướng gia không thể rời đi lâu, chúng ta mau chóng về thành thôi, chiếc xe trượt tuyết này đi rất nhanh, có thể tiết kiệm được một ít thời gian, khanh cũng lên đây ngồi đi, còn mấy thị vệ này thì để cho bọn họ cưỡi ngựa từ từ về cũng được”.
“Thẩn tuân chi”. Long Linh Nhi khom người trả lời, rồi lên xe trượt tuyết, ngồi phía sau Dương Hạo. Người lái chiếc xe trượt tuyết quất roi một cái, mười mấy con đại khuyển liền kéo chiếc xe chạy như bay lên sườn núi.
Trong thành Ngân Châu, Dương Hạo nhận được sự đón tiếp của đám văn võ tướng, lập tức đi tới phủ tướng quân của phòng ngự sử. Hắn đi thẳng vào trong phòng lớn, cũng không còn để ý đến việc phải khách sáo, liền lập tức bắt đầu lên kế hoạch cho Định Nan quân ứng đối với cục diện trước mắt. Dương Hạo sau khi nói rõ tình thế trong ngoài trước mắt, Đinh Thừa Tông liền nói: “Chư vị đại nhân, từ khi quan gia đăng cơ đến nay, cống thế của Tống Quốc ngày càng mạnh, bây giờ Liêu Quốc chỉ đồng ý kết giao với nước ta, chứ không chịu cho chúng ta bất kỳ hình thức viện trợ mang tính thực chất nào, có thể dự liệu được rằng, Tống Quốc một khi biết được tin này tất sẽ càng không kiêng kỵ, áp lực chúng ta phải chịu sẽ càng nhiều hơn trước đó”.
Chúng tướng nhất thời bàn luận xôn xao, Đinh Thừa Tông cao giọng nói: “Thừa Tông khi ở Hạ Châu đã từng kiến nghị với quan gia, nước ta mới lập, thế lực còn non yếu, không thể tách rời được sự giúp đỡ của Liêu Quốc. Chúng ta có thể bỏ ra nhiều sự nhượng bộ để đổi lấy viện trợ của Liêu Quốc, nhưng quan gia đã phủ định kiến nghị này của Thừa Tông, quan gia cho rằng sự trợ giúp bên ngoài cuối cùng cũng không phải là kế lâu dài.
Nước ta tự lập có lợi cho Liêu Quốc, cho nên có chỗ nào có thể giúp được chúng ta thì chúng ta không cần yêu cầu Liêu Quốc cũng sẽ làm, việc gì không thể ra tay giúp thì chúng ta cũng không biết được phải nhượng bộ bao nhiêu thì mới nhận được sự trợ giúp của Liêu Quốc, vậy từ đó chúng ta sẽ chịu sự khống chế của Liêu Quốc, đó gọi là được không bằng mất, cho nên vẫn nên để chính chúng ta giải quyết khó khăn này”.
Viện trợ vũ lực của Liêu Quốc vốn là một nhân tố bên ngoài rất được văn võ bá quan Hạ Quốc trông đợi, nhưng những lời này của Đinh Thừa Tông đã đi trước nói cho mọi người biết rằng: “Đừng chỉ trông chờ vào Liêu Quốc, không cho Liêu Quốc nhiều lợi ích hơn thì Liêu Quốc sẽ không phát binh, quan gia cũng căn bản không nghĩ rằng sẽ cho Liêu quốc thêm lợi ích. Cầu người không bằng cầu mình, chúng ta vẫn phải tự nghĩ ra cách giải quyết”.
Người được phái đến Hoành Sơn tham dự phòng ngự tác chiến Trương Sùng Nguy hơi nhíu mày nói: “Nếu như Liêu Quốc không trực tiếp xuất binh can dự, hoặc tạo ra một số việc để kìm chế binh lực của Tống Quốc ở biên cương Liêu Tống, thì e rằng áp lực chúng ta phải chịu quá lớn, trong thời gian ngắn, phòng tuyến Hoành Sơn có lẽ sẽ không bị công phá, nhưng về mặt tiêu hao binh viên, chúng ta không thể tiêu hao được như Tống quốc”.
Dương Diên Phổ trầm giọng nói: “Không sai, nếu như không giành được sự viện trợ của Liêu Quốc, khó khăn của chúng ta sẽ tăng gấp mười lần. Nhưng, mạt tướng cho rằng quan gia không cầu viện Liêu Quốc chưa chắc đã là chuyện xấu. Dã tâm của con lang Liêu Quốc rất lớn, một khi chúng ta quá phụ thuộc vào chúng, chúng sẽ từng bước từng bước tiến tới, cuối cùng chúng sẽ dần biến chúng ta thành nước chư hầu của Liêu Quốc, còn Liêu Quốc đã đối xử như thế nào đối với các nước chư hầu thì từ tình hình của Hán quốc, chư vị đại nhân cũng có thể nhìn ra. Đến lúc đó, Hạ Quốc ta chẳng qua chỉ là một công cụ Liêu Quốc dùng để đối phó với Tống Quốc mà thôi, quân thần Hạ Quốc ta cũng sẽ trở thành mã tiền tốt của Liêu Quốc, đem hy vọng của chúng ta gửi gắm vào Liêu Quốc chẳng khác gì đưa hổ cửa trước, rước cọp cửa sau, đều có hại như nhau”.
Dương Hạo mỉm cười, gật đầu tán thưởng: “Những lời Diên Phổ nói rất đúng, dựa vào Liêu Quốc, không thể được, mà xung quanh chúng ta lại không có đồng minh cường đại khác, chúng ta chỉ có thể dựa vào chính mình, khó khăn càng thêm khó khăn, nhưng một khi qua được giai đoạn này rồi thì có thể bớt được rất nhiều hậu họa về sau. Chúng ta trong cuộc chiến tranh nhất thống Hà Tây, mỗi một kẻ địch đều mạnh hơn chúng ta, nhưng cuối cùng đều bị chúng ta lần lượt hạ xuống, trước đây có thể, bây giờ lại không thể sao?
Dùng đại nhân vật Liêu Quốc này để giúp chúng ta đối phó với Tống Quốc, hai cự nhân này lại giao thủ với nhau trong địa bàn của chúng ta, kẻ đầu tiên bị hủy diệt sẽ không phải là hai con mãnh hổ đó mà chỉ có thể là chính chúng ta, cho nên... Không thể quá kỳ vọng vào sự giúp đỡ bên ngoài, chúng ta cần tính toán một chút, phải làm thế nào để dựa vào sức mạnh của chính mình, chống đỡ qua cửa ải này”.
Tư tưởng chính đã được định ra, đám văn võ chỉ cần dựa theo tư tưởng này mà mưu tính ra kế sách, từng kế hoạch được đề ra, sau đó dưới sự thảo luận của đồng liêu từng cái lại bị bác bỏ đi, Dương Hạo thỉnh thoảng cũng xen lời, gia nhập vào cuộc biện luận của bên đồng ý và bên phản đối.
Hắn là người thống trị cao nhất của Đại Hạ Quốc, nhưng không có nghĩa hắn là một chính trị gia, quân sự gia xuất sắc nhất trong đám văn thần võ tướng Hạ Quốc, từ trước tới nay, hắn sớm đã rèn luyện cho mình một phong độ tốt giữa các thuộc hạ của mình, mọi người đều đưa ra ý kiến, biết thì nói, nói không cần phải kiêng kỵ, cho dù là lời do chính miệng hắn nói ra cũng có thể phản bác. Khi mới bắt đầu, mọi người đều có chút kiêng kỵ, nhưng bây giờ đã quen với phong cách của hắn.
Mọi người nghị luận rất lâu, Dương Hạo đột nhiên phát hiện ra Dương Kế Nghiệp hơi trầm một chút, hắn rất ít nói xen vào, chỉ khi người khác nêu ra một kiến giải mới thì hắn mới chú ý nghe một chút, một khi bị người khác đẩy ra, ánh mắt của hắn mới quay trở lại, nhìn về hướng sa bàn, khổ tư suy nghĩ. Trong lòng Dương Hạo bất giác hơi trầm xuống, Dương Kế Nghiệp là tổng chỉ huy tác chiến của tiền tuyến Hoành Sơn, cũng là tướng lĩnh hắn coi trọng nhất ở đông thành, nếu như hắn đối với trận chiến này có sự bi quan thì tất sẽ ảnh hưởng đến sĩ khí toàn quân, Dương Hạo mở lời hỏi: “Dương tướng quân cho rằng chúng ta nên ứng đối với cục diện trước mắt như thế nào?”.
Dương Kế Nghiệp nhìn chằm chằm vào chiếc sa bản trước mặt, hai mắt xuất thần, căn bản không nghe thấy lời Dương Hạo nói, Dương Diên Phổ liền lay lay cổ tay phụ thân mình, thấp giọng nhắc: “Cha, quan gia đang gọi cha đấy”.
“Sao cơ? À! Quan gia...”. Dương Kế Nghiệp định thần lại, mơ hồ nhìn Dương Hạo: “Quan gia nói gì cơ?”.
Dương Hạo thở dài nói: “Ta nói... Dương tướng quân đối với việc ứng phó với Tống Quốc có chủ ý gì không?”.
“Việc này...”. Dương Kế Nghiệp lại nhìn sa bàn, trầm ngâm một hồi nói: “Trong thời gian ngắn, Tống quân không thể công phá được phòng tuyến Hoành Sơn, nhưng tin tức Liêu Quốc chưa đồng ý tương trợ ta mà truyền ra ngoài, Tống Quốc sẽ không còn phải lo trước tính sau nữa, tất nhiên sẽ phái càng nhiều binh lực tới, xung kích chúng ta phải chịu càng lớn, cho dù chúng ta chống đỡ được thì tiêu hao tất cũng cực đại.
Đây cũng chưa phải là điều phiền phức lớn nhất, điều phải lo lắng hơn chính là thiếu đi sự kìm kẹp của đối thủ cường đại, công thế của Tống Quốc có thể liên miên không dừng, mà tránh chiến tranh lâu dài chính là kế hoạch ban đầu của quan gia. Như vậy chúng ta muốn tránh được chiến tranh lâu dài thì không chỉ đơn giản là thủ vững, chúng ta còn phải ép làm sao cho Tống Quốc vứt bỏ tiến công vũ lực, ít nhất... Cũng phải làm đại thương nguyên khí của chúng, làm cho chúng nhất thời không dám tăng binh ở Hà Tây chúng ta nữa”.
Chủng Phóng nghe xong mắt đột nhiên sáng lên, nếu nói về chiến lược thì hắn có thể nói là mạnh như thác đổ, nếu nói đến chiến sách chiến thuật cụ thể thì những ngày qua sau khi nhận được các tin tình báo về cách bài binh bố trận của hai bên địch và ta, hắn cũng thường suy nghĩ, diễn giải theo cách riêng của mình, so sánh những phản ứng, phán đoán và chiến quả thực tế với nhau, làm cho hắn biết được kinh nghiệm thực chiến của mình vẫn không bằng Dương Kế Nghiệp, lúc này nghe hắn nói, bất giác có chút kinh ngạc, vội hỏi: “Phải chăng tướng quân cho rằng chúng ta nên chủ động xuất kích?”.
Dương Kế Nghiệp hơi lắc đầu, muốn nói lại thôi, Dương Hạo không kìm được mà nói: “Chúng ta đang thảo luận quân sự ở đây, người nói không có tội, tướng quân nếu như có cách nghĩ gì thì có thể nói ra, mọi người cùng thảo luận”.
Dương Kế Nghiệp chần chừ một lát rồi lại nói: “Mạt tướng cho rằng... Chúng ta nên vứt bỏ Hoành Sơn, lùi về phía sau”.
Chúng tướng nghe xong nhất thời xôn xao lên, Đinh Thừa Tông biến sắc nói: “Địa thế Hoành Sơn cũng có thể bỏ đi không lo sao? Chúng ta còn chưa lộ bại thế mà đã chủ động thoái lui sao? Nếu như vứt bỏ Hoành Sơn, đại môn rộng mở, Tống quân thẳng đường tiến vào, là có thể tới dưới thành Hạ Châu”.
Đám người Chủng Phóng, Trương Sùng Nguy, Lý Kế Đàm cũng động dung, trưởng sử Ngân Châu Long Linh Nhi lại hơi đưa mắt nhìn về phía Dương Hạo, tâm tư nữ nhi không tranh đấu hiếu thắng như nam nhân, cho nên trực giác đầu tiên của nàng chính là Dương Kế Nghiệp vẫn còn có những lời sau đó, cho nên lập tức nhìn Dương Hạo, xem phản ứng của hắn như thế nào.
Chủng Phóng, Đinh Thừa Tông đều là những người tâm tư kín đáo, chỉ sau sự kinh ngạc chốc lát lại phản ứng lại, liền im miệng, nhìn Dương Kế Nghiệp.
Dương Hạo lúc đầu nghe thấy lời này của Dương Kế Nghiệp cũng vô cùng kinh ngạc, hiểm yếu Hoành Sơn trong lòng hắn luôn là một chỗ dựa để đối kháng với Tống quân, nếu như vứt bỏ Hoành Sơn thì đối với hắn mà nói, cảm giác của hắn cũng chẳng khác gì mấy với cảm giác của Lý Dục khi vừa nghe nói Tống quân đã bình yên vượt qua hiểm yếu Trường Giang.
Nhưng thấy thần sắc của Dương Kế Nghiệp, trong lòng hắn bất giác động: “Dương Kế Nghiệp chăng nhẽ đang nghĩ tới chiêu pháp Lâm Xung bổng đả Hồng giáo đầu chứ? Có thể sao? Thực lực Tống quân không hề yếu, chúng ta chủ động vứt bỏ Lân Phủ là để tranh quyền chủ động, tập kết ưu thế binh lực, bố trí hiểm ải, từ mặt chiến lược mà nói chính là lấy lùi để tiến, nhưng đối mặt với một đối thủ cường đại như thế này, đến Hoành Sơn cũng phải bỏ sao...”.
Hắn từ từ giơ tay lên, ngăn những tiếng xì xào của mọi người lại, căn phòng lập tức yên tĩnh, lúc này mới nói: “Dương khanh, nói lý do của khanh đi”.
Dương Kế Nghiệp nói: “Vâng, quan gia, thần cho rằng muốn thủ vững Hoành Sơn tuy gian nan nhưng chúng ta vẫn thủ được, nhưng muốn kìm hãm Tống quân, ép chúng phải dừng những bước tiến vũ lực là điều không thể. Mà theo đại kế của quan gia, lại phải nhanh chóng kết thúc những cuộc chiến tranh này, ép triều đình Tống Quốc phải nghị hòa với chúng ta, như vậy tất phải sử dụng đến biện pháp đặc biệt”.
Dương Hạo hỏi: “Phương pháp đặc biệt của khanh chính là vứt bỏ hiểm yếu Hoành Sơn, lại rút lui quân, đánh một trận đại chiến với Tống quân ở dưới thành Hạ Châu?”.
Dương Kế Nghiệp nói: “Theo chủ ý của thần, quyết chiến ở Hạ Châu cũng không phải là chủ ý hay, tốt nhất tiếp tực rút lui đến thẳng tám trăm dặm sa mạc Gobi, dẫn dụ Tống quân đến thành Linh Châu rồi quyết tử chiến một trận, như vậy là thỏa đáng nhất, chỉ có điều... Quan gia nếu đã lập đô ở Hạ Châu, căn cơ đất nước vẫn không thể xem nhẹ, nên tuyệt đối không thể lùi nữa, cho nên... Chỉ có thể lùi đến Hạ Châu rồi dừng. Có điều, tuy không có sự trợ giúp ưu thế của tám trăm dặm sa mạc Gobi, nhưng cái diệu là lúc này cũng đến chính đông rồi, dựa vào sự giúp đỡ của ông trời, miễn cưỡng cũng có thể bù lại tác dụng của sa mạc Gobi chỉ là... Khó tránh sẽ vất vả hơn”.
Trong chúng tướng đang ngồi, vẫn có rất nhiều người không hiểu được ý của Dương Kế Nghiệp, nhưng Dương Hạo, Chủng Phóng và Đinh Thừa Tông đã hiểu được mấy phần, ba người không hẹn mà cùng vươn người về phía trước, Dương Hạo vội nói: “Nói tiếp đi”.
“Vâng!”. Dương Kế Nghiệp đáp một tiếng, lúc này mới nói ra hết kế sách bạo gan mà hắn vừa mới suy nghĩ kỹ ra. Theo như kế hoạch của hắn, muốn thủ vững Hoành Sơn thì dễ, muốn ép Tống Quốc hòa lại khó. Hơn nữa, chiến sự một khi kéo dài không nghỉ, quốc lực sẽ suy yếu, căn cơ chưa vững như Hạ Quốc trải qua chiến tranh liên miên tất sẽ nảy sinh dù vấn đề, tan vỡ từ nội bộ. Muốn nhanh chóng kết thúc chiến tranh chỉ có thể hết sức gây trắc trở cho Tống quân, muốn gây trắc trở cho Tống quân thì với tình hình thực lực có hạn của mình chỉ có thể thả cho chúng vào, tạo cho mình điều kiện thắng lợi có lực hơn.
Điều kiện này chính là lợi dụng tâm lý vội vàng muốn nhanh chóng giành thắng lợi, cho tên hoàng đế Hạ Quốc to gan lớn mật dám tự xưng đế này một phen thất bại của Tống Quốc để vứt bỏ Hoành Sơn, tiến hành chiến lược rút lui. Cho dù danh tướng một đời như Phan Mỹ cũng không thể tưởng tượng được Hạ Quốc lại chủ động vứt bỏ một hiểm yếu quan trọng đối với Hạ Quốc như Hoành Sơn, huống hồ bọn họ lại còn tự rút lui, làm giống như một đám thất bại thảm hại.
Bất kể là phân tích xuất phát từ yêu cầu chính trị của triều đình Tống quốc hay là tình thế chiến trường cụ thể, hay từ cá tính của viên chủ soái Phan Mỹ thì với cục diện trước mắt, Tống quân không có khả năng sẽ cắm chặt đánh vững, từng bước cùng cố hiểm ải, thiết doanh lập trại, từng bước tiến để cho Dương Hạo có thời gian nghỉ ngơi, sự lựa chọn duy nhất của bọn chúng chính là nhanh chóng truy kích, nắm lấy cơ hội để đả kích thật mạnh, thậm chí nhất cử tiêu diệt Hạ Quốc.
Còn tác dụng phụ từ việc Tống quân nhanh chóng đẩy mạnh tốc độ tiến công đem lại chính là chiến tuyến kéo dài, binh lực sẽ phân tán, hậu cần bổ sung cho tiền tuyến trở nên càng khó khăn, đối với Dương Hạo mà nói thả cho địch tiến vào, nội bộ của hắn cũng không có mấy thành trì, bất ngờ thành trì bị mất vào tay địch, gây nguy hiểm cho căn cơ quốc gia, bộ lạc thất thị Đảng Hạng bất cứ lúc nào cũng có thể tiến vào gây họa.
Chỉ cần lấy cứ điểm Hạ Châu để dụ dỗ chủ lực quân Tống vây thành, rồi có thể kiên trì chống đỡ được dưới sự công kích mãnh liệt của địch, khi đó tiêu hao hậu cần cực đại sẽ trở thành vấn đề đau đầu nhất của Tống quốc, lúc này Hạ Quốc lại có thể phát huy được ưu thế lớn của nó, bên ngoài vòng vây của Tống quân nó còn có một lượng lớn bộ lạc du mục, đây đều là bộ lạc du mục trên thảo nguyên mà toàn dân đều là binh, hơn nữa lại có lòng trung thành cực cao với Dương Hạo, có thể phá hoại thông tấn, tiếp tế, tiếp viện của chúng, không ngừng thi triển chiến thuật quấy nhiễu đối với Tống quân.
Mà binh đoàn Hạ Quốc của Dương Hạo cũng có thể phát huy ưu thế tác chiến của kỵ binh, bên ngoài vòng vây của Tống quân có thể thực thi phản bao vây, thanh đông kích tây, vây điểm đánh viện, vận động tác chiến, phá hủy tuyến viện trợ, kẹp cứng Tống quân ở giữa. Mùa đông khắc nghiệt còn một khoảng thời gian rất dài mới qua, trong thời gian này đường viện trợ của Tống quốc bị cắt đứt, sĩ khí sa sút thì chính là lúc bọn họ bắt đầu phản kích toàn diện. Dưới sự kiêng dè của Tống quốc đối với Liêu Quốc, một trận toàn thắng của Hạ Quốc cũng đủ ép Tống Quốc tạm dừng áp sát vũ lực với Hạ Quốc.
Khi Dương Kế Nghiệp nói xong kế hoạch của mình, Đinh Thừa Tông là người đưa ra phản đối đầu tiên, hắn biết kế hoạch bạo gan của Dương Kế Nghiệp không phải không có khả năng thực hiện, nhưng lấy tiền thành làm mồi dụ, lấy hoàng đế Đại Hạ Dương Hạo làm mồi, nguy hiểm như vậy không thể chấp nhận được, một khi thất bại, hậu quả thật chỉ nghĩ cũng biết, chỉ cần có một tia hy vọng, hắn tuyệt sẽ không đồng ý dùng tới chủ ý mạo hiểm này.
Chủng Phóng cũng phản đối kế hoạch này, lý do đại thể cũng giống Đinh Thừa Tông, lấy hoàng đế ra để làm mồi sao? Quả thật là đại nghịch bất đạo, Dương Kế Nghiệp chỉ suy nghĩ đến chiến thắng mà hoàn toàn quên mất hoàng đế có tác dụng trọng đại như thế nào với một đế quốc, cho dù là mất đi Hoành Sơn, mất đi Hạ Châu, Hạ Quốc vẫn còn hơn mười châu đến thẳng Ngọc Môn quan, nó vẫn là một quốc, nhưng nếu để mất hoàng đế thì...
Đối mặt với sự chỉ trích của văn võ bá quan, Dương Kế Nghiệp cười khổ nói: “Chúng ta có thể đi trước chuẩn bị, bố trí lại một lượt thành Hạ Châu để nó kiên cố vững trãi hơn, thần nhiều năm thủ ngự thành trì rất có tâm đắc. Với khí giới công thành bây giờ và chiến thuật công thành của Tống quân, chỉ cần để thần bố trí ổn thỏa, thần có rất nhiều phần nắm chắc có thể chống đỡ lại sự tiến công của Tống Quốc, bảo đảm Hạ Châu sẽ không bị mất, thần có chủ ý bạo gan này cũng là vì đã suy nghĩ đến sự an nguy của quan gia”.
Lý Kế Đàm nói: “Không được, ta phản đối, tuy Dương tướng quân thiện thủ thành, nhưng cẩn thận mấy cũng có sơ sót, lấy quan gia và đô thành ra làm mồi nhử, vạn nhất thất thủ, chúng ta không thể chống đỡ nổi đâu”.
Dương Diên Phổ nói: “Ngài cũng biết Tống Quốc khó đối phó như thế nào? Phan Mỹ đánh giỏi như thế nào? Hạ Quốc ta mới lập, binh nhỏ tướng yếu, căn cơ yếu mỏng, nếu như không mạo hiểm thì sao có thể giành được kỳ thắng? Đây gọi là chết trước sống sau”.
Hai bên tranh luận không thôi, Dương Hạo ngồi bên trên nghe ý kiến của mọi người lại không nhúc nhích gì, trông sắc mặt rất bình tĩnh, nhưng trong lòng lại nổi sóng ầm ầm: “Có phải hắn muốn đánh một trận bảo vệ chiến Moscow sao? Dương Kế Nghiệp có thể trở thành một Zhukov thứ hai sao? Hạ Châu có thể trở thành Waterloo của ta sao?”.
Đang trầm ngâm suy nghĩ, đột nhiên Chủng Phóng ngăn sự tranh luận hai bên lại, quay sang nói với Dương Hạo: “Quan gia, kế hoạch này của Dương tướng quân tuy có khả năng thành công, nhưng quá mạo hiểm, theo thần thấy chúng ta chi bằng làm thử một phen, tranh thủ để cho Liêu Quốc gia tăng áp lực với Tống Quốc, sự tồn tại của chúng ta đối với Liêu Quốc cũng có ý nghĩa trọng đại, bọn họ sẽ không ngồi yên bỏ mặc, chúng ta chỉ cần bỏ ra chút nhượng bộ thì có thể đổi lấy sự tương trợ của họ”.
Dương Hạo lắc đầu, trầm ngâm một lát nói: “Không, đối với Liêu Quốc chỉ có thể đưa ra những điều kiện hoàn toàn bình đẳng, không thể lấy hy sinh chủ quyền để đối lấy bất kỳ sự trợ giúp nào, cho dù là sự nhượng bộ nhỏ, điều này quan hệ trọng đại đến căn cơ quốc gia”.
Hắn dừng lại một lát, đột nhiên ngẩng đầu lên, trầm giọng nói: “Hãy làm theo kế sách mà Dương tướng quân đã nói, lập tức tăng cường hàng phòng ngự Hạ Châu, hội kiến thủ lĩnh các bộ lạc, đi trước chuẩn bị tất cả các biện pháp ứng biến, sau đó Dương tướng quân sẽ dẫn chư quân Hoành Sơn chấp hành thoái lui. Sau khi bố cục hoàn thành, lập tức triển khai tác chiến lưỡng tuyến nội ngoại, chờ đến lúc điều kiện phản công chín muồi!”.
Hắn đứng dậy, lại nói: “Hạ Châu là trung tâm của Định Nan ngũ châu, lại không phải là trung tâm của Hà Tây, trẫm bây giờ có được cả Hà Tây, Hạ Châu đã không thích hợp làm đô của Hạ mẫu, trầm sớm đã có ý lập Hưng Châu làm quốc đô. Tây Ngự Ngọc Môn Hưng Châu, nam khống Tiêu quan, bắc kháng Hạ Lan, đông kẹp Hoàng Hà, xung quanh địa thế thuận lợi cho việc bảo vệ Định Nan tứ châu, ở đó bắc có đại cốc Uyết Bảo Đại, tây có sa mạc Đằng Cách Lý, đông có sa mạc Mao Ô Tố, nam có Thanh Đồng Giáp, dễ thủ khó công, hơn nữa vì dựa vào núi Hạ Lan và Hoàng Hà nên môi trường, thời tiết rất thích hợp, gần hơn thì đó cũng là quê hương thóc gạo của Hà Tây, thích hợp nhất để định đô thành. Vì vậy, trẫm muốn định đô ở Hưng Châu, Đinh đại nhân lập tức bắt tay vào chuẩn bị, chuyển tất cả gia quyến của trẫm và những nhân vật quan trọng ở Hạ Châu cùng tiền bạc của Hạ Châu ta đến Hưng Châu trước”.
Dương Hạo muốn đưa tất cả thê tử đến Hưng Châu, đó chính là đã muốn chấp nhận kế hoạch của Dương Kế Nghiệp, một mình mình ở lại Hạ Châu đấu một trận. Thấy hắn đã định, Đinh Thừa Tông cũng không phản bác nữa, chỉ nặng nề đồng ý. Sau khi Dương Hạo thương lượng về mặt chiến thuật với chúng tướng, sắp xếp rõ ràng tất cả, liền nói: “Chư tướng Hoành Sơn lập tức quay trở về, đợi trẫm ở đây bố trí hoàn thành sẽ lập tức bắt đầu chấp hành thoái lui!”.
Chúng tướng đồng thanh hô vang rồi lập tức tản đi, Đinh Thừa Tông và Chủng Phóng cùng nhau đi ra khỏi đại đình, thấy chúng văn võ đã vội vã tản đi, Đinh Thừa Tông liền xua xua tay, bảo thị vệ của hắn dừng bước, nhẹ nhàng lui đi, Đinh Thừa Tông quay đầu nói: “Chủng đại nhân, ta luôn cảm thấy... Quan gia hình như có tính toán khác”. Chủng Phóng cười nói: “Tâm tư đế vương tốt nhất là chớ phỏng đoán lung tung”.
Đinh Thừa Tông cười nói: “Không phải ta đoán tâm tư quan gia mà chúng ta là những người phụ tá quân vương, luôn muốn làm đến mức tốt nhất, hoàn mỹ nhất. Ý của ta là nói thái độ của quan gia với Liêu Quốc có vấn đề”.
“Sao cơ?”. Chủng Phóng bước lại, đẩy chiếc xe đẩy của hắn, vừa đi vừa hỏi: “Đinh đại nhân có kiến giải gì?”.
Đinh Thừa Tông trầm ngâm nói: “Ngày trước khi quan gia mưu đồ Ngân Châu, đã từng cùng tác chiến với người Liêu. Tuy nói lúc đó mỗi bên đều có mục đích riêng, người Liêu muốn bắt Khánh vương, Quan gia muốn đoạt Ngân Châu, nhưng người Liêu khi bắt được Khánh vương liền rời khỏi đó luôn, không nhân cơ hội mà tiến thành lùng sục cướp của cải, tác phong làm việc của chúng không giống như chúng vẫn thường làm, có thể thấy, quan gia và người Liêu có một quan hệ tương đối mật thiết.
Bây giờ quan gia tự lập xưng đế, Hà Tây độc lập một phương, tuy đối với người Liêu mà nói là việc rất tốt với chúng, nhưng thực ra quan gia không cần phải bỏ ra cái giá cực đại, bất kể là xuất phát từ lợi ích cá nhân hay là vì mối giao tình năm xưa, chỉ cần nhượng bộ một chút thì muốn Liêu Quốc tương trợ không phải là khó. Điều làm người ta không hiểu được là quan gia đối với việc mượn sự trợ giúp từ Liêu Quốc lại hình như hoàn toàn không có chút thành ý nào.
Bất kể là thực lực trước mắt của Hạ Quốc hay là quẫn cảnh bây giờ, sự giúp đỡ của Liêu Quốc đều vô cùng quan trọng. Nhưng quan gia lại chỉ cho một chút ưu đãi trên một số loại hàng hóa trong tất cả các điều kiện mà quốc thư nhắc tới. Liêu Quốc lớn mạnh như vậy, những lợi ích nhỏ nhoi đó có thể được họ để ý tới không? Quan gia chính là không chịu nhượng bộ nửa bước, ngài có cảm thấy có chút kỳ lạ không?”.
Chủng Phóng cũng không hiểu nổi tại sao Dương Hạo lại có thái độ đó với một đại quốc duy nhất chịu giúp đỡ Hạ Quốc, cũng có thực lực tương trợ Hạ Quốc, suy đi tính lại, hắn chỉ có thể cười khổ nói: “Có lẽ quan gia dưới sự khống chế của Tống Quốc đã phải đi những bước rất gian nan, cho nên không muốn lại bị một cường quốc khống chế quá sâu nữa”.
Đinh Thừa Tông chậm rãi lắc đầu, hắn rất hiểu con người Dương Hạo trước kia, khi có thể mượn thế thì Dương Hạo tuyệt đối sẽ không do dự, đặc biệt là vào thời khắc khó khăn như thế này, hắn sao lại không chịu mượn thế, nhất định là đã có suy tính nhiều hơn, sẽ nhận được lợi ích lớn hơn, nhưng... Đây rõ ràng là chuyện hai bên không thể cùng thu được kết quả tốt, lợi ích này rốt cuộc là ở đâu?
Đinh Thừa Tông trăm suy ngàn nghĩ vẫn không thể lý giải nổi, hắn phát hiện mình thật sự càng ngày càng không hiểu được đệ đệ mình đang nghĩ cái gì nữa.
Đợi khi chúng văn võ lần lượt lĩnh chỉ lui đi, Dương Hạo đứng trong phòng nhăn mày suy nghĩ một hồi, liền lên tiếng gọi: “Ám Dạ!”.
Một người mặc áo xám lên tiếng rồi chạy vọt vào, khom người chờ lệnh, Dương Hạo liền sai bảo: “Lập tức thông báo cho bên Ba Thục, dừng cung ứng lương thực cho Nghĩa Quân, nói với Tiểu Lục đến ngày lễ Táo quân thì phải đánh thành đô cướp lương thực, thanh thế càng lớn càng tốt”.
Người áo xám đó đáp một tiếng rồi quay người chạy đi, Dương Hạo lẩm bẩm nói: “Ai nói hoàng đế không được để binh đói? Lúc cần đói thì cũng phải cho đói”.
Hắn chắp hai tay ra đằng sau, bước mấy bước lại nghĩ: “Kế này của Dương Kế Nghiệp tuy nguy hiểm nhưng lại càng có thể giảm bớt tiêu hao hơn cách lấy cứng chọi cứng của ta, đây chính là cầu phúc trong họa, khi cần mạo hiểm thì phải mạo hiểm, bên Ba Thục cũng cần Tiểu Lục phối hợp một chút, bên Biện Lương có cần...”.
Suy nghĩ kỹ lại, hắn liền lắc đầu: “Không được, bên Biện Lương là nước cờ ngầm, bây giờ không thể động, vẫn chưa tới lúc, vẫn chưa tới lúc...”.
*
* *
Biện Lương, trên đường lớn Đông Thập Tự có một quán rượu tên là Mỹ Nhân tửu phường, chủ tiệm tên là Đinh Mỹ Nhân, là một thiếu phụ mỹ miều khoảng hơn hai mươi tuổi, và có một người phụ tá. Căn tiệm này không lớn, nhưng ở nơi tấc đất tấc vàng như đường Đông Thập Tự mà một thiếu phu nhân có thể một mình mở một tiệm thì gia cảnh cũng coi như là khá giả.
Tiệm này không bán đồ ăn, chỉ bán mỗi rượu, ở một khu vực buôn bán tấp nập náo nhiệt như thế này mà lại chỉ buôn bán đơn điệu như vậy, làm ăn đa phần là không tốt. Nhưng phu nhân tiệm rượu này lại là một tuyệt sắc giai nhân, lông ngài mày phượng, khuôn mặt trái xoan như phù dung, da trắng mịn như ngọc, cơ thể uyển chuyển nhiều dáng điệu. Chất lượng rượu của tiệm này cũng tốt, tuyệt đối không thêm nước, cũng chưa bao giờ bán rượu bỏ nhiều men, nên có rất nhiều tửu khách tới chiếu cố.
Trong thành Đông Kinh vô lại rất nhiều, những kẻ háo sắc trong đám thực khách háo rượu đương nhiên cũng nhiều, Đinh Mỹ Nhân khi vừa mới mở tiệm, thì tên vô lại Đầu Tử Hùng trên đường Đông Thập Tự đã đến đầu tiên để xem, rồi loan truyền ra ngoài rằng mỹ nhân này là thứ độc chiếm của hắn. Nhưng hắn chỉ vừa mới trêu ghẹo được một lần, vẫn còn chưa kịp động chân động tay thì đã bị mấy hán tử cao lớn ở cấm quân treo lên đánh cho một trận.
Những hán tử cấm quân đó đánh mỏi tay mỏi chân rồi cất bước đi, đám huynh đệ vô lại của hắn lúc này mới có gan đi tới thả hắn xuống, khi đó Hùng lão đại lưỡi thè ra rất dài, mặt sưng lên dày ba thốn, cũng không biết mấy tên cấm quân đó đã dùng hình phạt gì với lưỡi mà lưỡi tuy chưa có bị rút ra nhưng từ đó lại biến thành tên lưỡi to, điều tồi tệ hơn là hai chân của hắn bị đánh gẫy hẳn.
Mới đầu thì đám huynh đệ ngày xưa còn kính hắn ba phần, nhưng lâu ngày chẳng còn ai để ý đến hắn nữa, lão đại mới của đường Đông Thập Tự là Chu Tráng Thự chê lão đại trước đây chướng mắt, cũng sợ hắn gây họa cho mình nên đã đá hắn đi xa. Từ đó Hùng lão đại chỉ có thể chống cây gậy mà đi xin ăn ở nơi khác. Sau này, có một vị tướng quân anh tuấn thường đến tửu lâu này thăm, lâu đần mọi người cũng biết tướng quân đó tất có tương hảo với nàng chủ quán, vì thế càng không có người nào đám đến gây sự nữa.
Lúc này, trong thành Đông Kinh tuyết rơi dày đặc, tuyết phù khắp trời, tuyết dày lên làm cho khách nhân của quán rượu cũng ít đi, Đinh Mỹ Nhân liền dặn dò xuống dưới: “Tiêu Minh, tuyết rơi nhiều như vậy không có khách đến cửa đâu, đóng cửa lại rồi ngươi về trước đi”.
Tiểu nhị ngày nghe thấy trưởng quầy bảo đóng cửa liền vui mừng đứng dậy dọn dẹp, vừa mới lắp được hai tấm gỗ vào cửa thì bên ngoài có một người mặc y phục cấm quân chạy như bay tới, bước vào cửa vừa phủi tuyết trên đầu vừa cười nói: “Sao thế, biết ta tới liền đóng cửa nghỉ bán à?”.
Tiểu nhị vừa nhìn thấy liền gật đầu khom người cười bồi nói: “Ôi chà, La thái úy, không phải là tuyết rơi quá nhiều sao, trưởng quầy bảo nghỉ sớm”.
Bà chủ thấy hắn đến liền ra nghênh tiếp, vừa dùng khăn lông giúp hắn phủi tuyết trên đầu, vừa sẵng giọng nói: “Tuyết rơi dày đặc như vậy ngài còn đến đây làm gì”.
Tiểu nhị đó rất lanh lợi, thấy hai người nói chuyện liền vội vã lắp hai cánh cửa khác vào rồi chạy biến đi. Không ngờ ở tửu lầu đối điện lại có hai lão giả bước trầm ổn đi ra, sắc mặt an tường, không giận mà trông cũng có uy, rất có khí thái quyền quý của đại nhân vật. Hai người ấy chính là La Công Minh và Sở Chiêu Phụ, hai người bước ra khỏi tửu lâu, chắp tay cáo biệt. Sở Chiêu Phụ xoay người ngồi lên chiếc kiệu nhỏ của mình, người hầu khiêng kiệu lên, đi nhẹ và nhanh rời khỏi đó.
La Công Minh lại vẫn chưa đi, lão nhân gia mắt không hoa, vừa rồi cảnh La Khắc Địch bước vào trong tiệm rượu đã bị hắn nhìn thấy, chỉ là ngại Sở Chiêu Phụ đang ở bên cạnh, không tiện lộ ra hình sắc, đợi khi Sở Chiêu Phụ đi rồi thì thấy tiểu nhị đó đóng cửa chỉ để lại một lối đi nhỏ rồi chạy biến mất. La Công Minh không khỏi nhíu mày, nghi hoặc hỏi: “Khắc Địch, đó là... Vị phu nhân tiệm bán rượu đó là ai?”.
Đúng lúc có một thư sinh mặc trường sam, đầu đội mũ nhung đang đi vào trong tửu lâu, nghe thấy rõ nửa câu sau của hắn, liền quay mặt lại nhìn, thấy lão nhân gia này tuổi tuy đã cao nhưng lưng không còng, tinh thần trông minh mẫn, rõ ràng rất có dáng vẻ của quý tộc, không khỏi cười nói: “Ha ha, lão nhân gia, ông cũng phải lòng tiểu nương tử tiệm bán rượu kia rồi à?
Ha ha, ông cũng có mắt nhìn người đó, có điều ông sống đến tuổi này rồi, gân cốt cũng đã yếu đi, không thể chịu nổi sự giày vò đâu, vãn sinh có lòng tốt nói cho ông nghe một câu, tiểu nương tử đó là người thương của La đại tướng quân chỉ huy sứ mã bộ quân đô cấm quân Đông Kinh chúng ta La Khắc Địch đó, ông không dây được với người ta đâu, chỉ rước thêm họa thôi”.
Thư sinh này không phải ai khác, chính là kẻ đã bị liên lụy vì Lý Dục mà cả nhà bị điêu tàn, bất đắc dĩ đã chuyển đến đây ở Tiêu tú tài Tiêu Thư Hữu. Tiêu tú tài khi đó nhìn thấy đại hán cấm quân xử lý Hùng lão đại, thấy đó là chuyện hay liền đi khắp nơi dò hỏi, biết La Khắc Địch là thường khách, lại biết được thân phận của La Khắc Địch nên thông qua một lượt tuyên truyền của hắn rằng mỹ nhân tửu phường ở đường Đông Thập Tự đã trở thành Mỹ thái công không thể gây sự, nên cũng không có hán nhân nào đến sinh thị phi ở quán nàng nữa.
La Công Minh vừa nghe lập tức đại nộ, tên tiểu tử của hắn cũng không còn nhỏ tuổi nữa, sớm đã qua tuổi hôn phối rồi, nhưng khi hắn nói đến chuyện thành thân với nó thì tên khốn đó lại kiên quyết không chịu, thoái thác hết lần này đến lần khác, muốn nạp hai phòng tiểu thiếp cho nó nó cũng không chịu. Lão La còn tưởng rằng con trai mình đang nắm đại quyền, muốn thận trọng nghiêm khắc với mình, nhất lòng vì tiền đồ, không ngờ... Không ngờ nó lại mê mẩn vì một nương tử bán rượu, nghe người ta nói chẳng phải là đã muốn lấy người ta về nhà rồi sao? “Khắc Địch nó... La gia ta sao lại sinh ra một đứa nghịch tử như thế chứ?”.
Tiêu tú tài nói xong hai câu, thấy lão nhân gia mặt mày nhăn nhó, còn cho rằng ông ta bị lời nói của mình làm cho sợ hãi, sợ bị đám hán tử cấm quân đánh chết, Tiêu tú tại tự cảm thấy là hảo sự liền cười ha ha, lắc lắc người bỏ đi.
La Công Minh đứng đó vừa bực vừa vội, lúc này chỉ muốn sai hạ nhân đến tửu phường đó đập cửa vào, lôi cái tên nghịch tử khốn kiếp đó ra, nhưng thấy cửa đóng gần hết, không biết đứa con trời đánh với nương tử mỹ miều đó đang làm chuyện gì mờ ám trong đó, vạn nhất có cử động bất nhã gì, một khi xông vào sẽ để cho tất cả mọi người ở đường này nhìn thấy cha bắt con gian dâm, phụ tử hai người đều là quan viên quyền cao chức trọng, việc này mà truyền ra ngoài thì lão La gia còn mặt mũi nào nữa.
Lão La liền thổi râu tức khí, xoay người bước lên kiệu của mình. Lão La ngồi xuống kiệu, vén tấm mành cửa ra, tức giận nói: “Đợi Khắc Địch trở về, bảo nó lập tức đến gặp lão phu!”.
Cửa tiệm vừa đóng, nụ cười thoải mái trên mặt La Khắc Địch lập tức biến mất, hắn xoa tay vào nhau, ngồi xuống bên bếp lửa, đưa tay ra hơ hơ cho ấm.
“Có tâm sự gì à?”. Đinh Ngọc Lạc nhẹ nhàng hỏi.
La Khắc Địch lắc đầu nói: “Nàng cũng ngồi xuống đi”.
Đinh Ngọc Lạc mỉm cười, kéo một chiếc ghế lại, hai tay nhấc tà váy sang một bên và ngồi xuống, lặng yên nhìn hắn, mấy năm nay rõ ràng là La Khắc Địch đã trưởng thành hơn nhiều, đại quyền trong tay làm cho khí chất của hắn cũng có sự biến hóa rất lớn, ánh mắt nghiêm nghị hơn, rất có dáng vẻ không giận mà cũng uy nghiêm.
Trong điếm trở nên tĩnh mịch, ánh sáng vắng lặng chiếu xuyên qua khe cửa, chiếu vào khuôn mặt Đinh Ngọc Lạc. Đinh Ngọc Lạc vẫn xinh đẹp như xưa, chỉ có điều giờ thêm mấy phần mùi vị nữ nhân, vô cùng quyến rũ.
“Uống chén rượu cho ấm người”. Đinh Ngọc Lạc nói nhẹ, giơ cánh tay ngọc ngà ra, rót cho hắn một chén rượu rồi nhẹ nhàng đưa tới trước mặt hắn, ánh mắt La Khắc Địch bất giác nhìn vào cánh tay nàng, một đôi tay ngọc ngà mịn màng, ngón út lại hơi cong lên giống như một đóa u lan, chỉ nhìn vào tay đã làm cho người ta thấy mê mẩn vậy mà còn được ngồi bên cạnh mỹ nhân, mùi thơm từ người nàng tỏa ra như làm bừng tỉnh bầu trời nhân gian.
Bông tuyết tuôn rơi, những tiếng chửi mắng của người bán hàng truyền từ xa tới càng rõ ràng hơn trong màn tĩnh lặng. Tất cả sự u sầu trong lòng La Khắc Địch đều biến mất trong sự dịu dàng của nàng, hắn nhẹ ôm lấy eo nàng, nhẹ vuốt tóc nàng, nghe tiếng trống ngực của nhau. Xuất thần một hồi lâu, La Khắc Địch liền nói: “Liêu Quốc đã cùng Hạ Quốc ký giao bang, có điều chỉ là bang giao cơ bản nhất, cũng chưa đồng ý cho Hạ Quốc bất kỳ sự trợ giúp nào, quan gia nghe được tin này vô cùng vui mừng, đã hạ chiếu điều thêm ba vạn cấm quân của đạo Hà Bắc tăng viện cho Hà Tây. Đồng thời lệnh cho Phan tướng quân, bảo ngài ấy nắm bắt lấy thời cơ, nhanh chóng đột phá phòng ngự Hoành Sơn, đánh đến thẳng trung tâm Hạ Châu, ta nghĩ... nàng chắc cũng biết chứ?”.
Hắn đương nhiên biết, Đinh Ngọc Lạc mai danh ẩn tính, mở tiệm ở Biện Lương tuyệt đối không phải chỉ là để có thể thường xuyên gặp hắn. Khi Dương Hạo vẫn là đại nguyên soái Hà Tây Lũng Hữu, hắn rất vui vì Đinh Ngọc Lạc tới, còn về việc Đinh Ngọc Lạc đến Biện Lương có phải có nhiệm vụ đặc biệt gì hay không thì hắn không quá quan tâm, chưa cần nói đến một người nắm trong tay trọng binh xưng bá một phương như Dương Hạo mà ngay cả một số người ở các địa phương có chút thực quyền, ai mà lại không cắm một số tai mắt phụ trách do thám tin tức nhất cứ nhất động của triều đình chứ?
Nhưng đến khi triều đình phát binh tới Lân Phủ, tiến công Hoành Sơn, Dương Hạo lại ngang nhiên xưng đế, quan hệ xấu đi rất nhiều. Nếu như để triều đình biết hắn có tư tình với đại trưởng công chúa Hạ Quốc, hơn nữa biết rõ đối phương ở Biện Lương mà lại còn giấu giếm thì La Khắc Địch hắn lập tức phải biến từ thống soái cấm quân cao cao tại thượng thành tù nhân. Nhưng cho dù hắn biết hậu quả nghiêm trọng như vậy nhưng hắn cũng không muốn Đinh Ngọc Lạc có chút mảy may tổn thương nào. Ngoài việc hắn có một mối tình thâm sâu với Đinh Ngọc Lạc ra thì mặt khác cũng bởi vì hành động của Dương Hạo bây giờ vẫn chưa dính dáng đến nàng mật thám trong lòng của hắn, đồng thời hắn đối với vị hoàng đế Triệu Quang Nghĩa này cũng thiếu chút hiếu trung, người hắn trung thành là thiên hạ Triệu thị, chứ không phải đại biểu cho một người nào đó của thiên hạ này.
Đinh Ngọc Lạc nhẹ thở dài một tiếng, trên trán hiện lên sự ưu lo, lẩm bẩm nói: “Đúng vậy, thiếp biết rồi, có điều... Nhị ca nếu đã dám tự lập quốc tất nhiên cũng đã suy nghĩ đến phản ứng của quan gia, thiếp nghĩ nhị ca sẽ làm được, huống hồ bây giờ đã là hàn đông, Phan tướng quân muốn có được tiến triển lớn cũng không phải là điều dễ dàng. Thiếp chỉ lo lắng... Chàng sẽ không bị phái đi Hà Tây chứ?”.
La Khắc Địch lắc đầu: “Quan gia đối với lão tướng tiền triều không tín nhiệm cho lắm, nếu không cũng sẽ không phá cách đề bạt một thiếu tướng trẻ tuổi như ta mà không nể mặt các lão tướng tiền triều, khi ngài ấy chưa ổn định đế vị trong năm, sáu năm thì sẽ không dễ dàng điều ta đâu, trừ phi... Ngài ấy muốn ngự giá thân chinh, ta mới phải đi theo”.
Đinh Ngọc Lạc thở phào nhẹ nhõm: “Như thế thì tốt rồi, thiếp thật sự sợ chàng sẽ chém giết với nhị ca thiếp trên chiến trường, khi đó hai quân trận tiền gặp mặt. Ôi! Thiếp thật không biết phải làm thế nào”.
o O o
File ảnh
http://ne3.upanh.com/b1.s7.d3/59f458b4ac70544f5aa641df0fb95f3c_36782083.chuong44 tamtudevuong1.gif
http://ne3.upanh.com/b4.s20.d1/c45cc76eceee51a75554f199f5d6b04e_36782093.chuong44 tamtudevuong03.gif
http://ne7.upanh.com/b3.s13.d3/513133c566884813029311a203a8d468_36782097.chuong44 tamtudevuong04.gif
http://ne1.upanh.com/b2.s6.d4/e131de1a36e44e61473badcbd884dfe8_36782101.chuong44 tamtudevuong05.gif
http://ne5.upanh.com/b2.s2.d4/6be4ad1517fb9d2482179dd8934c661f_36782105.chuong44 tamtudvuong06.gif
http://ne6.upanh.com/b2.s12.d1/5eb8274a1bb2547f5bfcc443246aeda6_36782116.chuong44 tamtudevuong07.gif
http://ne3.upanh.com/b4.s7.d2/4c830da95fdd5aced285e07db9468914_36782123.chuong44 tamtudevuong08.gif
http:///imagetruyen/images/764d5f3e3dae3aea26bc38d0c.gif
http:///imagetruyen/images/537dc746df3d69529ecdb2510.gif
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.