Hát Tiễn Hoa Đào, Chờ Người Quay Lại
Chương 31: Chương 14.2
Mĩ Bảo
18/10/2017
Type: chuot tery
Tôi trước sau vẫn cảm thấy thế cục như bây giờ rất khó nói, nhưng không thể giải thích lý do tại sao lại như vậy.
Nghĩ ngợi suy xét mãi vẫn không ra đầu mối, cả ngày tôi chỉ giúp được Liễu Minh Châu chỉnh đốn vương phủ, vỗ về dân chúng mà đã mệt mỏi rũ rượi. Lương thực trong nhà dân không còn nhiều, may mà kho lương thực của quan phủ vẫn còn đầy, nỗi sợ của bà con phần nhiều vẫn là chuyện ngoài thành.
Mới trải qua vài ngày lo lắng, sợ hãi, Liễu Minh Châu đã tiều tụy đi nhiều. Nàng ta cầm tay tôi, khẩn khoản nói: “Tiểu Mẫn, may mà có cô ở đây bầu bạn với ta.”
Cô làm huyện chủ đeo vàng đội bạc, ăn sung mặc sướng tôi chẳng được hưởng lây, đến khi kẻ địch đến công thành chiếm đất, cả thành chịu đói chịu rét tôi lại đến chịu hoạn nạn cùng. Tôi chỉ ước gì mình không phải ở đây, nhưng đâu có lựa chọn nào khác!
Tôi cười méo mó, vỗ vỗ tay nàng ta.
Tôi quay về, mệt đến mức nói không ra hơi, chỉ ăn được vài miếng cơm, tắm gội qua loa rồi đổ gục xuống giường, nhanh chóng ngáy khò khò. Thành bị vây khốn không hề ảnh hưởng đến giấc ngủ của tôi.
Nhưng ông trời không muốn cho tôi được ngủ.
Tôi đang nằm mơ thì bị ai đó lay dậy. Đồng Nhi hoảng hốt, lo lắng nói: “Đại tiều thư, kho lương thực bị cháy!”
Tôi ngồi phắt dậy. “Cái gì?”
Đồng Nhi đỏ hoe mắt. “Cả ba kho lương thực trong thành đều bị cháy! Bên ngoài đã loạn lên rồi, khắp nơi đang kêu gọi dập lửa.”
Tôi bật dậy, chạy ra ngoài. Đồng Nhi cầm áo khoác chạy thục mạng theo sau. Tôi mặc kệ tóc tai tán loạn cứ thế chạy, thì nhìn thấy Liễu Minh Châu cũng áo quần xộc xệch, khóc lả trên vai nha hoàn.
Nguyễn Tinh hấp tấp từ bên ngoài chạy vào, tôi chụp lấy cậu ta, hỏi: “Ai làm vậy?”
“Không biết!” Nguyễn Tinh bối rối. “Chắc chắn là có nội gián.”
Tôi hỏi: “Cháy đến đâu rồi?”
“Đang dập.” Mắt Nguyễn Tinh ánh lên nỗi lo sợ. “Nhưng mà đêm tối gió to, trời hanh vật khô…”
Tôi sợ hãi đến mức giữa gió lạnh đêm đông mà mồ hôi ướt đẫm người. “Liệu có cứu được không? Lương thực mà cháy hết thì biết làm sao?”
Tất cả mọi người đều cúi đầu.
Tôi ngẩng lên nhìn trời. Bầu trời đen như mực, ánh lửa rọi sáng rực một góc trời. Gió đang thổi mạnh, tôi có thể ngửi thấy mùi cháy trong bầu không khí băng lạnh.
“Làm sao đây?” Liễu Minh Châu nỉ non trong vô vọng.
Tôi cũng không biết. Phải làm sao đây?
Lửa lớn cháy rừng rực cả đêm, sáng sớm ngày hôm sau mới được dập bớt. Chúng tôi ra hiện trường xem xét, thấy kho lương thực to bây giờ chỉ còn tàn tích tường đổ, phần lớn lương thực đã bị thiêu rụi thành tro. Rất đông dân chúng đang ngồi vạ vật kêu khóc thất thanh trước cảnh tan tác hỗn độn, tôi nhìn mà lòng đau như cắt.
Ba kho lương thực, tổng cộng số lượng cứu được không đến một phần hai mươi, cộng thêm số lương thực các gia đình người dân tích trữ nữa, khéo xoay lắm cũng chỉ có thể cầm cự được khoảng mười ngày. Tôi và Liễu Minh Châu bàn bạc với nhau, rồi nàng ta chỉ huy mọi người mở kho lương thực của vương phủ, hiệu triệu người giàu trong thành mở kho cứu nạn.
Biết tin sẽ được phân phát lương thực, lo lắng khủng hoảng của dân chúng đã giảm bớt, bà con lục tục kéo đến xếp hàng đợi lượt.
Tôi và Liễu Minh Châu cả đêm không ngủ, nhưng lo toan đã vượt qua mệt mỏi, cả hai đều rất tỉnh táo, ra hiện trường giám sát, quản lý. Vị tiểu thư kim chi ngọc diệp, liễu yếu đào tơ này không đến mức không chịu được vất vả như tôi tưởng tượng, vào thời điểm cần thiết vẫn có thể mạnh mẽ, cứng rắn gánh vác trách nhiệm của mình.
Tôi luôn cho rằng sau khi kho lương thực bị cháy thì quân Liêu sẽ tận dụng thời cơ để công thành. Nhưng ngoài dự liệu của tôi, quân Liêu sau khi dựng lều trại ngoài thành thì ngày ngày cho người đứng dưới thành chửi bới, chứ không hề tấn công, phải chăng muốn đợi đến khi người trong thành đói lả rồi mới đạp cổng xông thẳng vào nhà?
Ban đầu chúng tôi đều nghĩ lần này chúng tấn công qua hung hăng, nhưng sau khi xảy ra việc kho lương thực bị cháy thì tình thế liền thay đổi, chúng tôi từ bên nắm được ưu thế trong nháy mắt đã biến thành phía yếu. Cảm giác này giống như một mã cổ phiếu ngày hôm trước vừa khiến bạn thắng được cả thế giới, hôm nay lại rớt khiến bạn khuynh gia bại sản vậy.
Tất cả chúng tôi đều thực sự sợ hãi, chiến tranh mang đến nỗi khiếp sợ về cái chết rành rành ngay trước mắt.
Xương quận vương vẫn thúc thủ trên tường thành, không dám lơi lỏng một giây phút nào. Trong thành đã loạn lạc rối ren, vật giá tăng cao, người người bất an. Nghe nói có nhiều người thử chạy ra khỏi thành qua khe tuyết lở trong núi, không biết có thoát không. Sau đó xảy ra một trận động đất nhẹ nữa, may mà không gây ra tổn thất gì. Nhưng chúng tôi vẫn lo lắng, liệu rằng vùng đất này có thuộc đới đứt gãy không, sao cứ vài ngày lại động đất một lần vậy?
Nguyễn Tinh nói, nếu tuyết không rơi thì mười lăm ngày nữa Tiêu Huyên có thể đến nơi. Nhưng trời luôn không theo ý người, thành bị vây đến ngày thứ năm, trời lại đổ tuyết dày.
Tôi đứng trong viện, nhìn những bông tuyết trắng tinh bay lất phất, đẹp đẽ tinh khôi như vậy mà sao lạnh giá buốt xương! Khắp mặt đất là một vùng trắng xóa, không nhìn thấy dấu vết của mầm sống đâu cả.
Khoảng một tháng trước đây, tôi vẫn còn ở trong viện của mình, cùng với đám Giác Minh chơi trò đắp người tuyết, đánh trận tuyết, hồn nhiên vui vẻ. Lúc đó, những thế cục căng thẳng, mâu thuẫn chính trị kịch liệt, hoàn toàn không liên quan đến chúng tôi.
Vân Hương được tôi nhờ ra ngoài thị sát đã quay về, báo: “Dân chúng vẫn tạm gọi là bình tĩnh, tin tưởng vương gia sẽ đến cứu chúng ta.”
Nhưng tuyết rơi càng lúc càng dày, đến quân Liêu ở ngoài thành cũng bị lạnh cóng, không hề thấy có động tĩnh gì.
Ngày thứ chín, khi tôi cho rằng sẽ cố cầm cự thế cục này đợi đến khi Tiêu Huyên đến, thì dịch bệnh đột nhiên lan tràn khắp thành. Lúc nhận được tin, tôi liền chạy đi tìm Liễu Minh Châu.
Đến ngoài sảnh, chưa kịp bước vào đã nghe thấy giọng Liễu Minh Châu hốt hoảng: “Cái gì? Nghiêm trọng vậy sao?”
Sau đó là một giọng nói rất quen thuộc: “Đừng hoảng sợ, có thể cứu được, nhưng cần một lượng lớn dược liệu.”
Tôi vội bước lên bậc, đẩy cửa lớn ra. Những người bên trong lần lượt quay đầu lại nhìn.
Đứng trước mặt Liễu Minh Châu là một chàng trai trẻ, gầy gò, chiếc áo bông rách nát xộc xệch trên người, bẩn đến mức không nhận ra màu sắc ban đầu, tóc tai bù xù, cằm lởm chởm châu râu xanh rì. Sao trông quen đến vậy!
“Trình huynh…”
“A Mẫn…”
Hai chúng tôi nước mắt lưng tròng, cầm tay nhau bùi ngùi, tình cảnh giống như đại hội sư trên núi Cảnh Cương.
“Huynh có khỏe không?” Tôi hỏi. “Đại thúc biến thái đó bắt huynh về có hành hạ gì không?”
“Khỏe lắm lắm!” Tiều Trình rất cảm động. “Lão ta chỉ bắt ta về để chửa bệnh cho mẹ già của lão thôi.”
“Thế huynh đã chữa khỏi chưa?”
“Không dám đâu! Lão bà bà đó già mà không chết mới là họa, bộ xương khô còn quý hơn bà ấy, ta mà cứu bà ấy là tự làm tổn hại đến phúc đức của mình. Ta chạy trốn đến đây đó!”
Tôi kinh ngạc. “Huynh lại trốn!”
Tiểu Trình đắc ý: “Lần này ta chạy thật xa, lão ta không thể bắt được ta!”
Y nói như vậy, tôi rất lấy làm xấu hổ. “Tiếc rằng lúc đó không cứu được huynh.”
Y vội nói: “Khả năng có hạn, không nên tự trách mình!”
Tôi thổn thức. “Được gặp lại huynh thật là phúc ba đời!”
Tiều Trình cũng nghẹn ngào. “Đúng vậy. Nếu không phải gặp lại ở Xích Thủy thì lại càng phúc.”
Lúc này tôi mới nhớ ra việc chính. “Huynh bảo nước trong thành bị đầu độc là thật sao?”
Tiểu Trình cũng trở nên nghiêm thúc. “Đúng vậy, ta đến Xích Thủy thì vào Nhân Hòa đường làm việc. Hôm nay, mới sáng ra đã có rất nhiều bà con đến cửa chữa bệnh, tình trạng lại giống hệt nhau. Đau bụng, nôn mửa, sốt sao, mất sức. Ta nghi ngờ nguồn nước có vấn đề, đi kiểm tra, quả đúng vậy, có người bỏ độc vào giếng nước.”
Tôi vội hỏi: “Là loại độc gì? Nghiêm trọng không? Giải độc thế nào?”
“Cỏ xà thạch thêm tịch nhan, liều lượng rất lớn. Tịch nhan gây tổn thương dạ dày, cỏ xà thạch khiến sốt cao.”
Liễu Minh Châu kêu lên: “Như thế sẽ khiến thể lực của binh sĩ suy yếu!”
Tôi lập tức nói với nàng ta: “Cô nương mau cho người đi báo với quận vương, bảo ông ta cho người thông báo với dân chúng toàn thành, hôm nay tạm thời không được dùng nước. Chọn vài người trong đám gia đinh của vương phủ ra sau núi, xúc tuyết ở các nơi khác nhau cho vào riêng từng bình mang về đây cho tôi. “Sau đó quay sang nói với Tiểu Trình. “Ta cùng huynh đi thăm bệnh nhân.”
Lấy mẫu tuyết là để làm rõ xem nguồn nước bị đầu độc từ đâu. Xích Thủy giáp với sa mạc Gobi, không có sông ngòi chảy qua. Gọi là Xích Thủy bởi vì nơi này từ N trăm năm trước có một dòng sông nhỏ luồn lách chảy, mang theo sỏi cát màu đỏ. Tuyết trên núi ở phía nam sau khi tan chảy, vì lý do địa hình mà chuyển thành mạch nước ngầm. Nếu kẻ hạ độc chỉ bỏ độc vào giếng nước trong thành thì dân chúng có thể lấy tuyết đun thành nước để dùng tạm.
Hôm đó, tính đến trước giờ ăn tối, người dân nhiễm bệnh trong thành đã lên đến hơn hai nghìn người, rất nhiều binh sĩ cũng bị trúng độc. Quan phủ trống chiêng khẩn cấp kêu gọi dân chúng ngừng dùng nước, mà tuyết đọng trên núi có vẻ không bị đầu độc nên tình trạng bệnh tật mới không xấu đi. Nhưng bệnh nhân đã quá nhiều mà dược liệu lại ít, thành bị bao vây, biết tìm cứu viện ở đâu?
Có xà thạch là loại dược cực mạnh, khiến người ta bị sốt cao, tôi ước tính rơi vào khoảng ba mươi chín độ. Người trẻ khỏe thì không sao, chứ người già, trẻ em sẽ khó trụ nổi. Tuy chúng tôi đã lấy nước tuyết để hạ sốt nhưng chưa đến nửa đêm, đã có vài em bé quá yếu không qua khỏi.
Trước đây, tôi không phải chưa từng nhìn thấy người chết, nhưng không có ai là bệnh nhân của mình. Tiếng khóc của cha mẹ những đứa trẻ làm tôi cảm thấy hai tay nặng trịch, cảm giác hụt hẫng và áy náy đè nặng trong lòng.
Tiểu Trình bước đến, vỗ vỗ vào vai tôi. “Người chết đã chết rồi, hãy chăm sóc người còn sống. Đây là tội ác của quân địch, không phải lỗi của cô nương.”
Tôi cảm kích gượng cười với y, cắn chặt răng, quay sang tập trung cứu chữa cho các bệnh nhân khác.
Tôi và Tiểu Trình cùng các thầy thuốc khác trong thành dùng hết sức mình chăm sóc cho bệnh nhân, mệt mỏi đến mức hai tay hai chân mềm nhũn, giữa mùa đông toàn thân ướt đẫm mồ hôi, mà vẫn không xuể. May mà vào lúc nguy khốn, toàn dân một lòng, rất nhiều bà con tự động đến giúp đỡ, góp sức góp thuốc, chia sẻ bớt gánh nặng với chúng tôi.
Đến lúc mặt trời mọc ngày hôm sau, đại đa số bệnh nhân đã giảm sốt, mấy người thầy thuốc chúng tôi mới thở phào nhẹ nhõm.
Đang định nghỉ ngơi một lát thì Xương quận vương lại chọn đúng lúc này đến thăm dân chúng gặp nạn. Tôi vừa ngáp dài vừa báo tình hình với ông ta: “Về cơ bản đã khống chế được dịch bệnh. Tốt nhất vương gia nên phái lính đi canh chừng nguồn nước trên núi. Không có thức ăn, con người có thể chịu đựng được bảy ngày, nhưng không có nước uống, chỉ được ba ngày là hết cỡ. Nói thực là, nếu còn bệnh dịch như thế này một lần nữa, tôi sẽ là người đầu tiên anh dũng hy sinh để đền đáp cho tổ quốc rồi được ghi danh vào sử xanh.”
Xương quận vương vất vả và lo âu bao nhiêu ngày, người gầy đen đi nhiều, da dẻ nhăn nhúm, toàn thân lộ vẻ tiều tụy vô cùng. Ông ta nhăn nhó mặt mày, nói: “Binh sĩ thủ thành còn chưa đủ. Phát động dân chúng đi!”
Tôi trừng mắt. “Vụ đầu độc này rõ ràng là do nội gián trong thành gây ra, không chừng chúng vẫn trà trộn trong dân chúng đó.”
Xương quận vương cũng không phải ngốc. “Thì cũng có thể lẫn trong binh sĩ.”
Tôi đành phải lùi một bước. “Thì cũng phải có lính thân cận mà ông tín nhiệm chứ?”
Cuối cùng Xương quận vương phái một số gia đinh trong vương phủ và cả binh lính thân cận lên núi.
Tôi kiếm đại một chỗ trong phòng thuốc ngủ một giấc, rất ngon lành. Chăn mỏng, giường lạnh, bốn bề thông gió, bên ngoài tiếng bệnh nhân rên rỉ và người nhà khóc than không ngớt vọng vào khiến tôi cảm thấy mình như đang ở địa ngục. Mắt tuy đã nhắm lại nhưng vẫn thấy đầy trời trăng sao, người dường như xoay tròn không ngừng trong không gian hư vô tăm tối.
Khó khắn lắm mới ngủ được một lúc thì Liễu Minh Châu lại chạy đến góp mặt, phút chốc đã khiến tôi tỉnh hẳn.
Đầu tôi đau như muốn nổ tung, giống như có người đang ở trong đó cầm búa gõ liên tục, cử động mạnh một chút là lại thấy buồn nôn.
Liễu Minh Châu quan tâm hỏi han: “Mẫn cô nương, sắc mặt cô không được tốt, có sao không vậy?”
Tôi tự bắt mạch cho mình, chỉ là mệt quá thôi, không có vấn đề gì khác.
Vân Hương mang bữa sáng đến cho tôi, có bánh trứng gạo nếp thơm ngào ngạt, bánh chưng nhân hạt dẻ, đậu xanh và một bát sữa bò nóng hôi hổi. Tôi thích ăn đồ nếp.
Ngủi thấy mùi thơm, dạ dày bắt đầu sôi lên, dịch vị tiết ra. Oái, bụng réo lên to quá, thật là ngượng quá đi!
Tôi cầm chiếc bánh chưng lên. Tiếng nuốt nước miếng cũng không giấu được, thật quá mất mặt!
Tôi bóc vỏ bánh chưng, cho lên miệng. Ực ực, lại là tiếng nuốt nước miếng.
Tôi hạ tay xuống, nhìn đứa bé nhếch nhác bên cạnh. Mắt to mắt bé nhìn nhau.
Không biết đứa trẻ chạy đến từ bao giờ, khoảng năm sáu tuổi, nhem nhuốc như từ dưới mỏ than trèo lên, cánh tay gầy guộc như que củi, áo bông rách nát, bẩn thỉu, không còn nhận ra màu sắc ban đầu. Đôi mắt to như con sói đói đang rình thỏ hoang, nhìn đau đáu vào miếng bánh chưng trong tay tôi.
Tôi nhìn đứa bé gầy guộc, gò má nhô cao, lòng thương cảm trào lên, liền đưa miếng bánh trong tay cho nó.
Mắt nó sáng rực lên, giật lấy miếng bánh chưng rồi lập tức chạy biến đi.
“Hả?” Tôi buồn phiền. Nhìn đứa bé lủi như chuột, chạy len lỏi qua đám người đến một góc, hai bàn tay bẩn thỉu cầm miếng bánh nhét vội vào miệng nhai ngấu nghiến từng miếng rõ to.
Tôi và Vân Hương chỉ biết trơ mắt ra nhìn, không nói một câu. Liễu Minh Châu phận thiên kim tiểu thư, chưa bao giờ chứng kiến cảnh này thì lòng thường xót từ bi như người mẹ nổi lên, lập tức cất giọng run rẩy: “Đứa bé thật đáng thương! Mẹ nó đâu? Tại sao nó phải chạy thật xa rồi mới ăn?”
Tôi thở dài. “Cô nương đã từng cho động vật hoang hoặc chim chóc ăn chưa? Tính cảnh giác của những loài ấy rất cao, khi chúng kiếm được thức ăn đều chạy thật xa, tìm một nơi nào không có đồng loại, không có hiểm nguy mới bắt đầu ăn. Đó là bản năng sinh tồn của chúng.”
Liễu Minh Châu kêu lên: “Nhưng đứa bé đó là người mà!”
“Đúng vậy.” Tôi thấp giọng nói. “Trẻ con lang thang từ bé đã học được cách sinh tồn trong tự nhiên.”
Liễu Minh Châu đau khổ nói: “Ta biết, trong thành đã có rất nhiều nhà bắt đầu hết thức ăn, tuy mở kho lương thực rồi nhưng không thể cứu hết tất cả được.”
Tôi quay đầu nhìn, thấy có người đang khiêng ngươi chết bệnh từ cửa ngách đi ra, đó hầu như đều là người già và trẻ em. Mắt tôi cay sè, cơn đau đầu bây giờ cũng chẳng là gì. Tôi uống sữa, cầm bánh trứng lên, đưa cho đứa bé khóc lả vì đói trong lòng mẹ.
“Tỷ!” Mặt mũi Vân Hương cũng trắng bệch. “Tỷ cũng phải chú ý sức khỏe của mình chứ!”
Tôi cười với nàng ta. “Ta đau đầu, ăn không nổi.”
Tôi đứng giữa phòng bệnh, khắp nơi là bệnh nhân đang rên rỉ. Ánh mắt sợ hãi của trẻ con và tiếng thở thoi thóp của người già bao vây lấy tôi. Gió lạnh thổi bụi tuyết vào trong cổ áo tôi, tôi bắt đầu ho.
Tiểu Trình gọi tên tôi rồi chạy lại. Y cũng đã vất vả một ngày đêm, trông tiều tụy đi nhiều, hai mắt vừa đỏ ngầu vừa sưng mọng.
“A Mẫn, tình hình ngoài thành thế nào rồi?”
Tôi lắc đầu. “Bạn ta đi nghe ngóng chưa thấy quay về. Chắc là vẫn như cũ, bao vây, đợi chúng ta tự mở cửa thành hoặc là chết đói.”
Tiểu Trình nhăn nhó khổ sở bứt tóc, bất chấp phong độ thư sinh nho nhã, lớn tiếng chửi: “Bọn chó Liêu chết dẫm kia sau này sẽ sinh con không có hậu môn!”
Liễu Minh Châu chắc là lần đầu tiên nghe thấy đàn ông nói năng thô lỗ như vậy, vừa kinh ngạc vừa khinh bỉ, quay mặt sang chỗ khác.
Tôi thở dài, nói với Tiểu Trình: “Trẻ con sinh ra không có hậu môn, đó là hậu môn bị cắt giảm chức năng bẩm sinh, do di truyền hoặc từ thai trong bụng mẹ đã có vấn đề, chứ không liên quan gì đến phẩm chất đạo đức của cha mẹ. Nhưng mà được rồi, ước gì bọn họ già thì bị trĩ, trẻ thì không có hậu môn, nữ nhân thì chưa đến hai mươi ngực đã chảy xệ, thế đã được chưa?”
Tiểu Trình cười ha hả. Mặt Liễu Minh Châu thì xám lại.
Thành bị vây đến ngày thứ mười, cuối cùng chúng tôi cũng nhận được tin tức của Tiêu Huyên. Nguyễn Tinh báo với tôi, quân đội của Tiêu Huyên gặp phải bão tuyết. Tim tôi cũng đông lại, cả người như bị rơi xuống hố băng.
“Rồi sao?”
Mặt Nguyễn Tinh phủ mây đen, lắc đầu. “Chim đưa thư rất khó bay trong bão tuyết. Mà quân Liêu đóng chiếm ngoài thành, hằng ngày có cung thủ chuyên bắn chim bay qua lại.”
Đến những lúc như thế này mới ý thức sâu sắc được sự vĩ đại của người phát minh ra vô tuyến điện.
Trời đông tháng Chạp, chim trên núi Thiên Sơn cũng bay đi sạch, trong vòng vạn dặm không có bóng người, người nước Liêu hùng hục chạy đến tận đây đánh nhau, chắc hẳn là uống nhầm thuốc nên não bị kích thích quá đà rồi.
Nguyễn Tinh giải thích cho tôi nghe: “Mẫn cô nương có biết trận chiến ở Trường Dụ quan năm đó không?”
Tôi gật đầu. “Là trận có vị Phong đại tướng quân đại chiến hoàng đế tiền nhiệm của nước Liêu phải không?”
“Đúng vậy.” Nguyễn Tinh nói. “Đại tư mã đại tướng quân Phong Tranh dĩ thiểu thắng đa, tại Trường Dụ quan đánh bại Liêu tiên đế Da Luật Hạo, phía tây Trường Dụ quan là một dải đất lớn quy về Tề Quốc chúng ta. Da Luật Hạo bị trúng tên, về không được bao lâu thì bệnh chết, còn chưa kịp lập hoàng trữ. Hậu cung của hắn rất đông nhưng lại hiếm con nối dõi, lúc đó thân vương, phiên vương có ý tranh đoạt ngôi vua, sau đó vẫn là hoàng hậu liên hợp hai tướng hạ sát Thúc Khánh vương tự ý vào kinh, giúp cho tam hoàng tử mười hai tuổi đăng cơ. Đó chính là Da Luật Trác bây giờ.”
Nhắc đến Da Luật Trác, hệ thống tình báo của Vân Hương bắt đầu khởi động. “Da Luật Trác có biệt hiệu là Ngọc Diện La Sát, nghe nói là người nam tướng nữ, dung mạo tuyệt đẹp, được nữ nhân nước Liêu rất ngưỡng mộ.”
Tôi cười phá lên. “Yêu một nam nhân tướng mạo như nữ nhân sao? Nữ nhân nước Liêu đều là lesbian cả hay sao?”
Vân Hương dưới sự dẫn dắt của tôi biết nghĩa của từ này. Nàng ta lắc đầu cật lực. “Da Luật Trác đăng cơ lúc thiếu niên, đại thần phụ chính nắm giữ chính quyền, hoàng quyền không có giá trị. Từ khi đăng cơ đến đại hôn đã thanh trừ ba vị đại thần phụ chính để thân chính, trải qua rất nhiều khó khăn, đạp lên cả máu tươi để tiến thân. Những gì đã phải trải qua khiến hắn tính tình nóng nảy, hỉ nộ khó lường, lại còn độc đoán chuyên quyền, hiếu thắng hiếu chiến, lạm dụng vũ lực…”
Tôi cảm động. “Vân Hương đọc bao sách cuối cùng đã có tác dụng.”
Tiểu Trình cũng cảm động. “Nói đúng lắm!”
Tôi kinh ngạc nhìn y. “Sao Trình huynh lại khóc?”
Tiểu Trình lau nước mắt, nói: “Miêu tả kĩ quá khiến tôi sợ mà khóc.”
Tôi ồ lên. “Huynh thật là nhạy cảm.”
“Thế thì…” Liễu Minh Châu cố tìm cách xen vào. “Thế… hắn đến đây là để báo thù?”
Tôi gật đầu. “Điều đó rõ như ban ngày.”
Trí tưởng tượng của Liễu Minh Châu lập tức hoạt động. “Hắn sẽ phá thành, đốt nhà cướp của…”
Tôi cắt ngang lời nàng ta: “Lần này dẫn binh không phải là con trai hoàng đế, mà là Vệ sinh đốc thái vương.”
“Là Vệ đô vương, Mẫn cô nương.” Nguyễn Tinh nén cười sửa lời tôi. “Vệ đô vương tuy không tàn bạo như Da Luật Trác, nhưng hắn lại rất háo sắc…”
Người có dung nhan sắc nước hương trời nhất trong đám người chúng tôi là Liễu tiểu thư lập tức ôm lấy ngực hoảng hốt.
Tôi vỗ vai nàng ta. “Đừng sợ, Yến vương gia nhà cô nương sẽ đến làm anh hùng cứu mỹ nhân.”
Thành bị vây đến ngày thứ mười lăm, nửa đêm lại có một trận động đất nữa xảy ra, lần này rung lắc mạnh hơn các lần trước, đèn cung đình treo dọc hành lang lắc lư rất lâu. Tôi tỉnh giấc vì sợ hãi, theo bản năng định chui xuống gầm giường để nấp, nhưng rung một hồi rồi sau đó mặt đất lại yên ắng trở lại. Tôi căng thẳng, lo lắng đợi rõ lâu, rồi thiếp đi lúc nào không hay.
Trời vừa sáng, gió tuyết thổi ở bên ngoài càng lúc càng mạnh, không có vẻ gì là sẽ ngừng, chưa có tin tức gì của Tiêu Huyên. Chúng tôi thậm chí còn chẳng hề hay biết hiện giờ bọn họ đang gặp lành hay dữ.
Đến người trong vương phủ chúng tôi cũng bắt đầu phải ăn màn thầu và cháo, bên ngoài đã có người chết đói trên đường. Tuy rằng đã chuẩn bị tinh thần từ trước nhưng khi Nguyễn Tinh nói thế, tôi vẫn trào nước mắt.
Tôi không đi ra khỏi cửa, sợ nhìn thấy những cảnh thương tâm. Trước đây, chẳng phải chưa thấy người chết bao giờ, nhưng nhìn thấy những người lớn đang khỏe mạnh, trẻ em ngây thơ mà phải chết đói ngay trước mắt, tôi sợ mình sẽ bị tâm thần phân liệt mất.
Nhưng cùng lúc tôi lại thấy mình như vậy là ích kỷ. Tôi có thể chia phần thức ăn của mình cho những người ngoài kia, nhưng tôi muốn sống, tuy thấy rằng mỗi miếng ăn nhận thêm về mình là một tội ác, nhưng tôi vẫn muốn được sống.
Tôi muốn sống để gặp Tiêu Huyên.
Liễu Minh Châu chống cự được đến giờ mà không đổ bệnh, mặt mũi xanh xao nhưng trước sau vẫn không gục ngã khiến tôi có ý nể phục. Nhưng theo tình trạng bát cháo hoa ngày càng trong vắt có thể soi bóng người trong đó, màn thầu ngày càng bé đi, thì tôi không thể không thừa nhận là cái chết vì đói đã cận kề sát bên.
Tôi đã từng chết một lần, chết vì sự cố thang máy chiếm tỉ lệ quá thấp, bây giờ lại bắt tôi đương đầu với nguy cơ chết đói. Tôi thực sự không muốn chết đói, cả chết ngạt hay chết cháy nữa, đều quá đau đớn. Nếu cái chết là không thể tránh khỏi, tôi hy vọng đó chỉ là chuyện trong nháy mắt, như thể một cái chớp mắt, đến khi mở mắt ra thì linh hồn tôi đã thoát khỏi thể xác. Chứ chết đói là từng giây từng phút nhìn thấy thân thể của mình thoát hình, thấy linh hồn mình tách ra, thực sự quá tàn nhẫn, khiến tâm hồn bị thương tổn gây ảnh hưởng đến kiếp sau.
Chao ơi, nghĩ nhiều như vậy để làm gì? Vẫn chưa thấy tin tức của Tiêu Huyên. Chúng tôi có đói thêm nữa thì ít nhất vẫn còn có giường nằm, có chăn đắp. Còn quân đội của huynh ấy hành quân trong tuyết lớn, thực sự là uống máu lưỡi kiếm, ngủ trên lưng ngựa, ngày tháng gói gọn trong một chữ khổ. Tôi không nên than vãn nhiều.
Tôi lo nghĩ nhiều quá gây ra phản ứng rõ ràng là mất ngủ. Lâu nay, đâu chỉ chạm gối là ngáy khò khò, bây giờ trằn trọc xoay sở mãi mà không sao ngủ được. Nghe tiếng tuyết rơi, trong lòng lạnh giá. Họ hành quân đến đâu rồi? Đường có dễ đi không? Sức khỏe có chịu đựng nổi không? Độc trong người như một quả bom không hẹn giờ, tôi suốt ngày lo lắng mà huynh ấy lại chẳng quan tâm.
Nhưng tôi dự tính sự kiên nhẫn của quân Liêu cũng chỉ được khoảng mười lăm ngày. Trời rét đất đóng băng, chúng ngủ trong lều trại ngoài trời cũng không sung sướng gì, đối với việc đánh trận viễn chinh không thuận tiện. Khi quân đội của Tiêu Huyên đến, trong đánh ra ngoài đánh vào, chúng chỉ gặp thêm rắc rối mà thôi. Đúng ra thì vào lúc dân chúng trong thành đang chết đói thì phải đánh chiếm lấy thành.
Chiến hỏa cháy đến cửa thì cảm giác sẽ thế nào? Tôi và Liễu Minh Châu leo lên thành lầu, dè dặt nhìn xuống.
Mênh mông đồng tuyết, lều trại màu trắng của quân Liêu gần như vô hình giữa mặt đất. Tôi cố gắng tìm kiếm mới nhìn ra những lều trại dày đặc phủ kín đến tận chân trời. Chiếc lều màu trắng to nhất kia, nghe nói là của chủ soái.
Xương quận vương gầy rộc hẳn đi, nhưng lại lấy lại được phần nào vẻ tuấn tú tiêu sái thời trai trẻ, tiếc là đầu tóc đã bạc trắng cả. Liễu Minh Châu rơi nước mắt múc chí mà phù cho ông ta ăn.
Ông ta nhìn thấy vừng xay trong bát, đau đớn cảm thán: “Dân chúng trong thành đã đổi con để ăn thịt, binh sĩ trên thành cũng chịu đói chịu rét, thế mà ta vẫn có chí mà phù để ăn. Minh Châu, ta là chủ nhân của một tòa thành, phải làm gương, sau này binh sĩ ăn gì ta ăn nấy, con đừng mang những thứ này đến cho ta nữa.”
Những lời nói đó khiến mắt tôi cay sè. Liễu Minh Châu thì khóc nức nở.
Tôi nhìn tuyết vẫn rơi dày đặc không ngừng ngoài trời, tâm trạng chùng xuống tận đáy vực, lạnh lẽo như băng hàn, móng tay bất giác cắm chặt vào lòng bàn tay.
Thành bị bao vây đến ngày thứ mười bảy, không biết từ đâu có tin đồn rằng quân đội của Tiêu Huyên gặp phải bão tuyết, toàn quân bị vùi lấp.
Liễu Minh Châu sợ hãi, mặt thất sắc. Tôi lại quả quyết rằng không phải. “Không thể như vậy được! Bão tuyết nào có thể gây ra được chuyện đó? Mười vạn quân được trang bị đầy đủ chứ đâu phải một tiểu đội đột kích? Đứa khốn khiếp nào phao tin đồn nhảm đó, gặp tao tao cắt lưỡi!”
Nguyễn Tinh trầm tư. “Nhưng mãi mà không thấy tin tức của vương gia…”
“Vương gia không làm sao cả!” Tôi tuyên bố, cũng để tự động viên bản thân.
Huynh ấy còn phải quân lâm thiên hạ, chịu chết cóng trong tuyết thì quá là bất công.
Vương phủ giật gấu vá vai đã quá lâu, cuối cùng không cầm cự nổi nữa, màn thầu bột mì giã biệt bàn ăn của chúng tôi đi chi viện cho binh sĩ nơi tiền tuyến. Đàn bà còn đỡ chứ đàn ông quả thực rất khó khăn. Nguyễn Tinh gầy tọp đi. Tôi thấy cậu ta quá khổ sở, tuổi này cậu ta vẫn cần ăn cần ngủ để lớn thêm. Nhưng những ngày sống trong chờ đợi mới là gian khổ nhất.
Quân Liêu hằng ngày vẫn cho người đứng dưới thành chửi rủa, lời lẽ cực kỳ khó nghe. May mà Xương quận vương là người như lão tăng ngồi thiền, không nghe không thấy gì cả.
Có lẽ đến cả ông trời cũng không chịu nổi nữa, đầu giờ chiều hôm đó, mặt đất bỗng nhiên rung chuyển mạnh, trên đầu sấm sét rền vang, lớn đến mức tai tôi ù đi. Tôi ngẩng đầu nhìn trời, có chuyện gì vậy?
Một người hầu ở vương phủ đứng bên cạnh bỗng kêu lên thất thanh: “Trên núi có khói!”
Tôi nhìn theo hướng anh ta chỉ. Trên đỉnh ngọn núi cao nhất phủ đầy tuyết trắng của dãy núi cách thành không xa về phía nam kia đang cuộn trào những lớp khói xanh. Đến mức này mà tôi vẫn không biết chuyện gì đang xảy ra thì coi như tôi đã phí công sống hơn hai mươi năm ở xã hội hiện đại.
Núi lửa phun trào?!
Hai chân tôi mềm nhũn, suýt nữa ngã quỵ. Liễu Minh Châu nghe tiếng cũng chạy ra, mắt tròn xoe, tay bưng lấy miệng.
Tôi hỏi nàng ta: “Trước đây đã từng xảy ra hiện tượng này chưa?”
Liễu Minh Châu run run đáp: “Chưa bao giờ nhìn thấy… Chỉ có hồi nhỏ nghe người già kể Nam Thiên sơn có khói phun lửa, nói rằng thần núi nổi giận. Ta cứ nghĩ đó chỉ là truyền thuyết, ai ngờ… ai ngờ…”
Tôi muốn khóc mà không khóc nổi. “Sao các người không nói sớm?” Nếu biết trước chuyện này, đánh chết tôi cũng không đến cái nơi quỷ tha ma bắt chó ăn đá gà ăn sỏi núi phun lửa này, thà ở lại thành Tây Dao uống giấm còn hơn chạy đến đây ăn bụi núi lửa.
Gió tây thổi mạnh, tôi lập tức ngửi thấy mùi lưu huỳnh trong không khí. Mặt đất tiếp tục rung lắc nhẹ, lớp khói dày đặc từ núi xa bốc lên cuồn cuộn, hiện vẫn chưa nhìn thấy ngọn lửa, nhưng ai mà biết được nó sẽ phun trào lúc nào, liệu bao lâu nữa nó sẽ biến thành Xích Thủy thành thành cổ Pompeii?
Tôi vội vàng bảo Nguyễn Tinh đi nghe ngón tin tức ngoài thành, tìm cách thoát thân. Nhưng phúc bất trùng lai họa vô đơn chí, Đồng Nhi hấp tấp chạy đến báo với tôi rằng Vân Hương đã đổ bệnh.
Bao ngày nay, không ngày nào tôi không phải trải qua sợ hãi, lo lắng, đến giờ tinh thần đã kiệt quệ, nhưng khi nghe thấy tin này, vẫn thấy một luồng khí lạnh từ lòng bàn chân xộc lên.
Vân Hương nằm hôn mê bất tỉnh trên giường, mặt hồng rực, trán nóng giãy.
Đồng Nhi nói: “Vân Hương tiểu thư đã mệt mấy ngày nay rồi, thấy tiểu thư cả ngày vất vả nên không muốn nói, sợ tiểu thư thêm lo lắng.”
Tôi quay mặt đi lau nước mắt, dặn dò Đồng Nhi: “Xúc mấy chậu tuyết vào đây, chúng ta sẽ làm giảm sốt cho nàng ta.”
Không có thuốc kháng sinh, nhưng cũng không thể để Vân Hương sốt cao biến chứng thành viêm phổi.
Sáng hôm sau, Vân Hương đã hạ sốt nhưng vẫn chưa tỉnh. Bên ngoài, núi lửa vẫn tiếp tục sục sôi, không khí đầy bụi tro và mùi thối, có cả những tảng đá lớn lăn xuống.
Nhiệt độ ngoài trời tăng lên một chút, nhưng tôi cảm thấy rất ngột ngạt khó thở. Người trong vương phủ ai cũng hoảng loạn, đi lại bồn chồn không yên, tôi còn nghe thấy những tiếng kêu la sợ hãi của dân chúng ngoài kia nữa. Nhưng thành vẫn bị bao vây, chúng tôi thoát bằng cách nào đây?
Liễu Minh Châu hai mắt đỏ hoe đến tìm tôi. “Làm thế nào bây giờ? Người già bảo rằng, một khi thần núi đã phát hỏa thì cả tòa thành đều bị vùi trong nham thạch. Chẳng phải lúc đó… không cần đợi quân Liêu tấn công nữa, chúng ta cũng không sống nổi.”
Núi lửa vẫn chưa đến độ phun trào mạnh nhất, miệng núi vẫn còn mờ mịt. Tôi mù mờ về địa lý, chỉ có thể ôm tâm lý lạc quan mà suy đoán, có thể một, hai ngày nữa núi lửa vẫn chưa phun trào. Khi nào dung nham trào ra, tôi vẫn còn chút độc dược ở đây để tự kết thúc. Cái chết không đáng sợ, tôi quen rồi.
Tôi đang lẩm bẩm thì Đồng Nhi lên tiếng khuyên tôi nên đi nghỉ ngơi một chút. Dù sao cũng chẳng có gì để làm, không ngủ thì làm gì? Ngồi đợi bị chôn trong tro bụi sao?
Mấy ngày này tôi bị mất ngủ nghiêm trọng, mãi mới ngủ thiếp đi được một lát thì lại mơ một giấc mơ hỗn loạn, những người và những việc kỳ quái lượn như đèn kéo quân trước mặt, hết vụ này đến vụ khác khiến tôi không kịp tiếp nhận. Nếu như đây được tính là ngủ thì thà tỉnh còn được nghỉ ngơi. Nhưng bệnh đau nửa đầu đã trầm trọng đến mức không chỉ là đau nữa, mà cảm giác đầu như bị nứt ra, sắp nổ tung. Hai mắt tôi khô khốc, không thiết ăn uống. Nghĩ lại nguyên nhân của chuyện này thì có lẽ là từ lúc tôi chăm sóc bệnh nhân trúng độc đã bị nhiễm lạnh.
Cố gắng ép mình nằm xuống, nhưng không thể ngủ được, cảm thấy còn mệt hơn. Tôi lại đành mò dậy, đi thăm Vân Hương xem thế nào.
Đi đến bên ngoài phòng Vân Hương, đang giơ tay định đẩy cửa thì bỗng nghe tiếng loảng xoảng bên trong, có vật gì đó rơi xuống đất vỡ vụn, sau đó có tiếng người khẽ kêu lên. Tôi nhận ra đó là giọng Vân Hương, vội vã xông vào.
Rèm vẫn buông kín, bên trong tối tăm, mùi thuốc lẫn mùi hương xông nặng nề u uẩn trong không khí. Tôi bước qua tấm bình phong, nhìn thấy bà vú chăm sóc nàng ta đang ngủ gục một bên, còn nàng ta đang cố nhổm lên với tách trà.
Tôi vội mắng mỏ: “Muội mới đỡ sốt, sao không gọi người hầu tới giúp?” Nói rồi rót một tách trà đưa cho nàng ta.
Vân Hương ngại ngần cười, nhìn sang bà vú đang ngủ, nói khẽ: “Đại nương mệt rồi.”
Tôi bắt mạch cho bà, đúng là bà bị mệt mỏi. Bà vú đã ngoài năm mươi, cũng không còn khỏe mạnh nữa.
Vân Hương nói: “Tỷ, sao tỷ chưa đi nghỉ?”
Tôi thở dài. “Mất ngủ.”
Nàng ta rất lo lắng. “Nghe nói thần núi nổi giận, đỉnh núi phát hỏa?”
Tôi than: “Thiên tai địch họa đều đến cả.”
Vân Hương bồn chồn. “Hôm nay đã là ngày thứ mười tám, lúc nào vương gia mới đến cứu chúng ta đây?”
Tôi chán chường. “Ta cũng không biết. Núi lửa phun trào còn đáng sợ hơn chiến tranh rất nhiều. Trận chiến này xảy ra không đúng lúc chút nào.”
Núi lửa vẫn âm ỉ sục sôi, dường như chưa muốn phun trào uy lực của mình ra tứ phía. Nhưng đến trưa thì Vân Hương lại bắt đầu sốt cao. Tôi khám kĩ càng cho nàng ta một lượt, nhưng không tìm ra nguyên nhân gây bệnh, trong lòng bắt đầu hoảng loạn.
Tôi gọi Tiểu Trình đến, bảo khám lại lần nữa nhưng vẫn không tìm ra nguyên nhân. “Chắc là trúng gió, bị đi bị lại.”
Tôi đang lau người để giúp Vân Hương hạ sốt thì Liễu Minh Châu gọi. Nàng ta nói rất nghiêm túc: “Việc này cho người ở làm là được rồi, cô phải nghỉ ngơi một chút. Cô có biết trông cô bây giờ đáng sợ thế nào không?”
Vậy ư? Tôi sờ lên mặt.
Tiểu Trình đứng bên cũng gật đầu. “Cả thể lực lẫn tinh thần của cô đều đã đến cực hạn rồi, nếu không nghỉ ngơi, sau Vân Hương sẽ đến lượt cô gục ngã.”
Tôi không còn cách nào khác, bị Tiểu Trình cưỡng chế lôi đi.
Trở về phòng, tôi không còn sức cởi giày nữa, ngã xuống giường.
Tiểu Trình đắp chăn cho tôi, nói: “A Mẫn, mấy ngày nay tôi quan sát cô, thấy cô thật là tốt, rất đáng khen…”
Tôi chưa kịp nghe đoạn sau y nói gì thì Nguyễn Tinh bỗng đẩy cửa vào, hưng phấn, kích động kêu lớn: “Vương gia đến rồi!”
Tôi trước sau vẫn cảm thấy thế cục như bây giờ rất khó nói, nhưng không thể giải thích lý do tại sao lại như vậy.
Nghĩ ngợi suy xét mãi vẫn không ra đầu mối, cả ngày tôi chỉ giúp được Liễu Minh Châu chỉnh đốn vương phủ, vỗ về dân chúng mà đã mệt mỏi rũ rượi. Lương thực trong nhà dân không còn nhiều, may mà kho lương thực của quan phủ vẫn còn đầy, nỗi sợ của bà con phần nhiều vẫn là chuyện ngoài thành.
Mới trải qua vài ngày lo lắng, sợ hãi, Liễu Minh Châu đã tiều tụy đi nhiều. Nàng ta cầm tay tôi, khẩn khoản nói: “Tiểu Mẫn, may mà có cô ở đây bầu bạn với ta.”
Cô làm huyện chủ đeo vàng đội bạc, ăn sung mặc sướng tôi chẳng được hưởng lây, đến khi kẻ địch đến công thành chiếm đất, cả thành chịu đói chịu rét tôi lại đến chịu hoạn nạn cùng. Tôi chỉ ước gì mình không phải ở đây, nhưng đâu có lựa chọn nào khác!
Tôi cười méo mó, vỗ vỗ tay nàng ta.
Tôi quay về, mệt đến mức nói không ra hơi, chỉ ăn được vài miếng cơm, tắm gội qua loa rồi đổ gục xuống giường, nhanh chóng ngáy khò khò. Thành bị vây khốn không hề ảnh hưởng đến giấc ngủ của tôi.
Nhưng ông trời không muốn cho tôi được ngủ.
Tôi đang nằm mơ thì bị ai đó lay dậy. Đồng Nhi hoảng hốt, lo lắng nói: “Đại tiều thư, kho lương thực bị cháy!”
Tôi ngồi phắt dậy. “Cái gì?”
Đồng Nhi đỏ hoe mắt. “Cả ba kho lương thực trong thành đều bị cháy! Bên ngoài đã loạn lên rồi, khắp nơi đang kêu gọi dập lửa.”
Tôi bật dậy, chạy ra ngoài. Đồng Nhi cầm áo khoác chạy thục mạng theo sau. Tôi mặc kệ tóc tai tán loạn cứ thế chạy, thì nhìn thấy Liễu Minh Châu cũng áo quần xộc xệch, khóc lả trên vai nha hoàn.
Nguyễn Tinh hấp tấp từ bên ngoài chạy vào, tôi chụp lấy cậu ta, hỏi: “Ai làm vậy?”
“Không biết!” Nguyễn Tinh bối rối. “Chắc chắn là có nội gián.”
Tôi hỏi: “Cháy đến đâu rồi?”
“Đang dập.” Mắt Nguyễn Tinh ánh lên nỗi lo sợ. “Nhưng mà đêm tối gió to, trời hanh vật khô…”
Tôi sợ hãi đến mức giữa gió lạnh đêm đông mà mồ hôi ướt đẫm người. “Liệu có cứu được không? Lương thực mà cháy hết thì biết làm sao?”
Tất cả mọi người đều cúi đầu.
Tôi ngẩng lên nhìn trời. Bầu trời đen như mực, ánh lửa rọi sáng rực một góc trời. Gió đang thổi mạnh, tôi có thể ngửi thấy mùi cháy trong bầu không khí băng lạnh.
“Làm sao đây?” Liễu Minh Châu nỉ non trong vô vọng.
Tôi cũng không biết. Phải làm sao đây?
Lửa lớn cháy rừng rực cả đêm, sáng sớm ngày hôm sau mới được dập bớt. Chúng tôi ra hiện trường xem xét, thấy kho lương thực to bây giờ chỉ còn tàn tích tường đổ, phần lớn lương thực đã bị thiêu rụi thành tro. Rất đông dân chúng đang ngồi vạ vật kêu khóc thất thanh trước cảnh tan tác hỗn độn, tôi nhìn mà lòng đau như cắt.
Ba kho lương thực, tổng cộng số lượng cứu được không đến một phần hai mươi, cộng thêm số lương thực các gia đình người dân tích trữ nữa, khéo xoay lắm cũng chỉ có thể cầm cự được khoảng mười ngày. Tôi và Liễu Minh Châu bàn bạc với nhau, rồi nàng ta chỉ huy mọi người mở kho lương thực của vương phủ, hiệu triệu người giàu trong thành mở kho cứu nạn.
Biết tin sẽ được phân phát lương thực, lo lắng khủng hoảng của dân chúng đã giảm bớt, bà con lục tục kéo đến xếp hàng đợi lượt.
Tôi và Liễu Minh Châu cả đêm không ngủ, nhưng lo toan đã vượt qua mệt mỏi, cả hai đều rất tỉnh táo, ra hiện trường giám sát, quản lý. Vị tiểu thư kim chi ngọc diệp, liễu yếu đào tơ này không đến mức không chịu được vất vả như tôi tưởng tượng, vào thời điểm cần thiết vẫn có thể mạnh mẽ, cứng rắn gánh vác trách nhiệm của mình.
Tôi luôn cho rằng sau khi kho lương thực bị cháy thì quân Liêu sẽ tận dụng thời cơ để công thành. Nhưng ngoài dự liệu của tôi, quân Liêu sau khi dựng lều trại ngoài thành thì ngày ngày cho người đứng dưới thành chửi bới, chứ không hề tấn công, phải chăng muốn đợi đến khi người trong thành đói lả rồi mới đạp cổng xông thẳng vào nhà?
Ban đầu chúng tôi đều nghĩ lần này chúng tấn công qua hung hăng, nhưng sau khi xảy ra việc kho lương thực bị cháy thì tình thế liền thay đổi, chúng tôi từ bên nắm được ưu thế trong nháy mắt đã biến thành phía yếu. Cảm giác này giống như một mã cổ phiếu ngày hôm trước vừa khiến bạn thắng được cả thế giới, hôm nay lại rớt khiến bạn khuynh gia bại sản vậy.
Tất cả chúng tôi đều thực sự sợ hãi, chiến tranh mang đến nỗi khiếp sợ về cái chết rành rành ngay trước mắt.
Xương quận vương vẫn thúc thủ trên tường thành, không dám lơi lỏng một giây phút nào. Trong thành đã loạn lạc rối ren, vật giá tăng cao, người người bất an. Nghe nói có nhiều người thử chạy ra khỏi thành qua khe tuyết lở trong núi, không biết có thoát không. Sau đó xảy ra một trận động đất nhẹ nữa, may mà không gây ra tổn thất gì. Nhưng chúng tôi vẫn lo lắng, liệu rằng vùng đất này có thuộc đới đứt gãy không, sao cứ vài ngày lại động đất một lần vậy?
Nguyễn Tinh nói, nếu tuyết không rơi thì mười lăm ngày nữa Tiêu Huyên có thể đến nơi. Nhưng trời luôn không theo ý người, thành bị vây đến ngày thứ năm, trời lại đổ tuyết dày.
Tôi đứng trong viện, nhìn những bông tuyết trắng tinh bay lất phất, đẹp đẽ tinh khôi như vậy mà sao lạnh giá buốt xương! Khắp mặt đất là một vùng trắng xóa, không nhìn thấy dấu vết của mầm sống đâu cả.
Khoảng một tháng trước đây, tôi vẫn còn ở trong viện của mình, cùng với đám Giác Minh chơi trò đắp người tuyết, đánh trận tuyết, hồn nhiên vui vẻ. Lúc đó, những thế cục căng thẳng, mâu thuẫn chính trị kịch liệt, hoàn toàn không liên quan đến chúng tôi.
Vân Hương được tôi nhờ ra ngoài thị sát đã quay về, báo: “Dân chúng vẫn tạm gọi là bình tĩnh, tin tưởng vương gia sẽ đến cứu chúng ta.”
Nhưng tuyết rơi càng lúc càng dày, đến quân Liêu ở ngoài thành cũng bị lạnh cóng, không hề thấy có động tĩnh gì.
Ngày thứ chín, khi tôi cho rằng sẽ cố cầm cự thế cục này đợi đến khi Tiêu Huyên đến, thì dịch bệnh đột nhiên lan tràn khắp thành. Lúc nhận được tin, tôi liền chạy đi tìm Liễu Minh Châu.
Đến ngoài sảnh, chưa kịp bước vào đã nghe thấy giọng Liễu Minh Châu hốt hoảng: “Cái gì? Nghiêm trọng vậy sao?”
Sau đó là một giọng nói rất quen thuộc: “Đừng hoảng sợ, có thể cứu được, nhưng cần một lượng lớn dược liệu.”
Tôi vội bước lên bậc, đẩy cửa lớn ra. Những người bên trong lần lượt quay đầu lại nhìn.
Đứng trước mặt Liễu Minh Châu là một chàng trai trẻ, gầy gò, chiếc áo bông rách nát xộc xệch trên người, bẩn đến mức không nhận ra màu sắc ban đầu, tóc tai bù xù, cằm lởm chởm châu râu xanh rì. Sao trông quen đến vậy!
“Trình huynh…”
“A Mẫn…”
Hai chúng tôi nước mắt lưng tròng, cầm tay nhau bùi ngùi, tình cảnh giống như đại hội sư trên núi Cảnh Cương.
“Huynh có khỏe không?” Tôi hỏi. “Đại thúc biến thái đó bắt huynh về có hành hạ gì không?”
“Khỏe lắm lắm!” Tiều Trình rất cảm động. “Lão ta chỉ bắt ta về để chửa bệnh cho mẹ già của lão thôi.”
“Thế huynh đã chữa khỏi chưa?”
“Không dám đâu! Lão bà bà đó già mà không chết mới là họa, bộ xương khô còn quý hơn bà ấy, ta mà cứu bà ấy là tự làm tổn hại đến phúc đức của mình. Ta chạy trốn đến đây đó!”
Tôi kinh ngạc. “Huynh lại trốn!”
Tiểu Trình đắc ý: “Lần này ta chạy thật xa, lão ta không thể bắt được ta!”
Y nói như vậy, tôi rất lấy làm xấu hổ. “Tiếc rằng lúc đó không cứu được huynh.”
Y vội nói: “Khả năng có hạn, không nên tự trách mình!”
Tôi thổn thức. “Được gặp lại huynh thật là phúc ba đời!”
Tiều Trình cũng nghẹn ngào. “Đúng vậy. Nếu không phải gặp lại ở Xích Thủy thì lại càng phúc.”
Lúc này tôi mới nhớ ra việc chính. “Huynh bảo nước trong thành bị đầu độc là thật sao?”
Tiểu Trình cũng trở nên nghiêm thúc. “Đúng vậy, ta đến Xích Thủy thì vào Nhân Hòa đường làm việc. Hôm nay, mới sáng ra đã có rất nhiều bà con đến cửa chữa bệnh, tình trạng lại giống hệt nhau. Đau bụng, nôn mửa, sốt sao, mất sức. Ta nghi ngờ nguồn nước có vấn đề, đi kiểm tra, quả đúng vậy, có người bỏ độc vào giếng nước.”
Tôi vội hỏi: “Là loại độc gì? Nghiêm trọng không? Giải độc thế nào?”
“Cỏ xà thạch thêm tịch nhan, liều lượng rất lớn. Tịch nhan gây tổn thương dạ dày, cỏ xà thạch khiến sốt cao.”
Liễu Minh Châu kêu lên: “Như thế sẽ khiến thể lực của binh sĩ suy yếu!”
Tôi lập tức nói với nàng ta: “Cô nương mau cho người đi báo với quận vương, bảo ông ta cho người thông báo với dân chúng toàn thành, hôm nay tạm thời không được dùng nước. Chọn vài người trong đám gia đinh của vương phủ ra sau núi, xúc tuyết ở các nơi khác nhau cho vào riêng từng bình mang về đây cho tôi. “Sau đó quay sang nói với Tiểu Trình. “Ta cùng huynh đi thăm bệnh nhân.”
Lấy mẫu tuyết là để làm rõ xem nguồn nước bị đầu độc từ đâu. Xích Thủy giáp với sa mạc Gobi, không có sông ngòi chảy qua. Gọi là Xích Thủy bởi vì nơi này từ N trăm năm trước có một dòng sông nhỏ luồn lách chảy, mang theo sỏi cát màu đỏ. Tuyết trên núi ở phía nam sau khi tan chảy, vì lý do địa hình mà chuyển thành mạch nước ngầm. Nếu kẻ hạ độc chỉ bỏ độc vào giếng nước trong thành thì dân chúng có thể lấy tuyết đun thành nước để dùng tạm.
Hôm đó, tính đến trước giờ ăn tối, người dân nhiễm bệnh trong thành đã lên đến hơn hai nghìn người, rất nhiều binh sĩ cũng bị trúng độc. Quan phủ trống chiêng khẩn cấp kêu gọi dân chúng ngừng dùng nước, mà tuyết đọng trên núi có vẻ không bị đầu độc nên tình trạng bệnh tật mới không xấu đi. Nhưng bệnh nhân đã quá nhiều mà dược liệu lại ít, thành bị bao vây, biết tìm cứu viện ở đâu?
Có xà thạch là loại dược cực mạnh, khiến người ta bị sốt cao, tôi ước tính rơi vào khoảng ba mươi chín độ. Người trẻ khỏe thì không sao, chứ người già, trẻ em sẽ khó trụ nổi. Tuy chúng tôi đã lấy nước tuyết để hạ sốt nhưng chưa đến nửa đêm, đã có vài em bé quá yếu không qua khỏi.
Trước đây, tôi không phải chưa từng nhìn thấy người chết, nhưng không có ai là bệnh nhân của mình. Tiếng khóc của cha mẹ những đứa trẻ làm tôi cảm thấy hai tay nặng trịch, cảm giác hụt hẫng và áy náy đè nặng trong lòng.
Tiểu Trình bước đến, vỗ vỗ vào vai tôi. “Người chết đã chết rồi, hãy chăm sóc người còn sống. Đây là tội ác của quân địch, không phải lỗi của cô nương.”
Tôi cảm kích gượng cười với y, cắn chặt răng, quay sang tập trung cứu chữa cho các bệnh nhân khác.
Tôi và Tiểu Trình cùng các thầy thuốc khác trong thành dùng hết sức mình chăm sóc cho bệnh nhân, mệt mỏi đến mức hai tay hai chân mềm nhũn, giữa mùa đông toàn thân ướt đẫm mồ hôi, mà vẫn không xuể. May mà vào lúc nguy khốn, toàn dân một lòng, rất nhiều bà con tự động đến giúp đỡ, góp sức góp thuốc, chia sẻ bớt gánh nặng với chúng tôi.
Đến lúc mặt trời mọc ngày hôm sau, đại đa số bệnh nhân đã giảm sốt, mấy người thầy thuốc chúng tôi mới thở phào nhẹ nhõm.
Đang định nghỉ ngơi một lát thì Xương quận vương lại chọn đúng lúc này đến thăm dân chúng gặp nạn. Tôi vừa ngáp dài vừa báo tình hình với ông ta: “Về cơ bản đã khống chế được dịch bệnh. Tốt nhất vương gia nên phái lính đi canh chừng nguồn nước trên núi. Không có thức ăn, con người có thể chịu đựng được bảy ngày, nhưng không có nước uống, chỉ được ba ngày là hết cỡ. Nói thực là, nếu còn bệnh dịch như thế này một lần nữa, tôi sẽ là người đầu tiên anh dũng hy sinh để đền đáp cho tổ quốc rồi được ghi danh vào sử xanh.”
Xương quận vương vất vả và lo âu bao nhiêu ngày, người gầy đen đi nhiều, da dẻ nhăn nhúm, toàn thân lộ vẻ tiều tụy vô cùng. Ông ta nhăn nhó mặt mày, nói: “Binh sĩ thủ thành còn chưa đủ. Phát động dân chúng đi!”
Tôi trừng mắt. “Vụ đầu độc này rõ ràng là do nội gián trong thành gây ra, không chừng chúng vẫn trà trộn trong dân chúng đó.”
Xương quận vương cũng không phải ngốc. “Thì cũng có thể lẫn trong binh sĩ.”
Tôi đành phải lùi một bước. “Thì cũng phải có lính thân cận mà ông tín nhiệm chứ?”
Cuối cùng Xương quận vương phái một số gia đinh trong vương phủ và cả binh lính thân cận lên núi.
Tôi kiếm đại một chỗ trong phòng thuốc ngủ một giấc, rất ngon lành. Chăn mỏng, giường lạnh, bốn bề thông gió, bên ngoài tiếng bệnh nhân rên rỉ và người nhà khóc than không ngớt vọng vào khiến tôi cảm thấy mình như đang ở địa ngục. Mắt tuy đã nhắm lại nhưng vẫn thấy đầy trời trăng sao, người dường như xoay tròn không ngừng trong không gian hư vô tăm tối.
Khó khắn lắm mới ngủ được một lúc thì Liễu Minh Châu lại chạy đến góp mặt, phút chốc đã khiến tôi tỉnh hẳn.
Đầu tôi đau như muốn nổ tung, giống như có người đang ở trong đó cầm búa gõ liên tục, cử động mạnh một chút là lại thấy buồn nôn.
Liễu Minh Châu quan tâm hỏi han: “Mẫn cô nương, sắc mặt cô không được tốt, có sao không vậy?”
Tôi tự bắt mạch cho mình, chỉ là mệt quá thôi, không có vấn đề gì khác.
Vân Hương mang bữa sáng đến cho tôi, có bánh trứng gạo nếp thơm ngào ngạt, bánh chưng nhân hạt dẻ, đậu xanh và một bát sữa bò nóng hôi hổi. Tôi thích ăn đồ nếp.
Ngủi thấy mùi thơm, dạ dày bắt đầu sôi lên, dịch vị tiết ra. Oái, bụng réo lên to quá, thật là ngượng quá đi!
Tôi cầm chiếc bánh chưng lên. Tiếng nuốt nước miếng cũng không giấu được, thật quá mất mặt!
Tôi bóc vỏ bánh chưng, cho lên miệng. Ực ực, lại là tiếng nuốt nước miếng.
Tôi hạ tay xuống, nhìn đứa bé nhếch nhác bên cạnh. Mắt to mắt bé nhìn nhau.
Không biết đứa trẻ chạy đến từ bao giờ, khoảng năm sáu tuổi, nhem nhuốc như từ dưới mỏ than trèo lên, cánh tay gầy guộc như que củi, áo bông rách nát, bẩn thỉu, không còn nhận ra màu sắc ban đầu. Đôi mắt to như con sói đói đang rình thỏ hoang, nhìn đau đáu vào miếng bánh chưng trong tay tôi.
Tôi nhìn đứa bé gầy guộc, gò má nhô cao, lòng thương cảm trào lên, liền đưa miếng bánh trong tay cho nó.
Mắt nó sáng rực lên, giật lấy miếng bánh chưng rồi lập tức chạy biến đi.
“Hả?” Tôi buồn phiền. Nhìn đứa bé lủi như chuột, chạy len lỏi qua đám người đến một góc, hai bàn tay bẩn thỉu cầm miếng bánh nhét vội vào miệng nhai ngấu nghiến từng miếng rõ to.
Tôi và Vân Hương chỉ biết trơ mắt ra nhìn, không nói một câu. Liễu Minh Châu phận thiên kim tiểu thư, chưa bao giờ chứng kiến cảnh này thì lòng thường xót từ bi như người mẹ nổi lên, lập tức cất giọng run rẩy: “Đứa bé thật đáng thương! Mẹ nó đâu? Tại sao nó phải chạy thật xa rồi mới ăn?”
Tôi thở dài. “Cô nương đã từng cho động vật hoang hoặc chim chóc ăn chưa? Tính cảnh giác của những loài ấy rất cao, khi chúng kiếm được thức ăn đều chạy thật xa, tìm một nơi nào không có đồng loại, không có hiểm nguy mới bắt đầu ăn. Đó là bản năng sinh tồn của chúng.”
Liễu Minh Châu kêu lên: “Nhưng đứa bé đó là người mà!”
“Đúng vậy.” Tôi thấp giọng nói. “Trẻ con lang thang từ bé đã học được cách sinh tồn trong tự nhiên.”
Liễu Minh Châu đau khổ nói: “Ta biết, trong thành đã có rất nhiều nhà bắt đầu hết thức ăn, tuy mở kho lương thực rồi nhưng không thể cứu hết tất cả được.”
Tôi quay đầu nhìn, thấy có người đang khiêng ngươi chết bệnh từ cửa ngách đi ra, đó hầu như đều là người già và trẻ em. Mắt tôi cay sè, cơn đau đầu bây giờ cũng chẳng là gì. Tôi uống sữa, cầm bánh trứng lên, đưa cho đứa bé khóc lả vì đói trong lòng mẹ.
“Tỷ!” Mặt mũi Vân Hương cũng trắng bệch. “Tỷ cũng phải chú ý sức khỏe của mình chứ!”
Tôi cười với nàng ta. “Ta đau đầu, ăn không nổi.”
Tôi đứng giữa phòng bệnh, khắp nơi là bệnh nhân đang rên rỉ. Ánh mắt sợ hãi của trẻ con và tiếng thở thoi thóp của người già bao vây lấy tôi. Gió lạnh thổi bụi tuyết vào trong cổ áo tôi, tôi bắt đầu ho.
Tiểu Trình gọi tên tôi rồi chạy lại. Y cũng đã vất vả một ngày đêm, trông tiều tụy đi nhiều, hai mắt vừa đỏ ngầu vừa sưng mọng.
“A Mẫn, tình hình ngoài thành thế nào rồi?”
Tôi lắc đầu. “Bạn ta đi nghe ngóng chưa thấy quay về. Chắc là vẫn như cũ, bao vây, đợi chúng ta tự mở cửa thành hoặc là chết đói.”
Tiểu Trình nhăn nhó khổ sở bứt tóc, bất chấp phong độ thư sinh nho nhã, lớn tiếng chửi: “Bọn chó Liêu chết dẫm kia sau này sẽ sinh con không có hậu môn!”
Liễu Minh Châu chắc là lần đầu tiên nghe thấy đàn ông nói năng thô lỗ như vậy, vừa kinh ngạc vừa khinh bỉ, quay mặt sang chỗ khác.
Tôi thở dài, nói với Tiểu Trình: “Trẻ con sinh ra không có hậu môn, đó là hậu môn bị cắt giảm chức năng bẩm sinh, do di truyền hoặc từ thai trong bụng mẹ đã có vấn đề, chứ không liên quan gì đến phẩm chất đạo đức của cha mẹ. Nhưng mà được rồi, ước gì bọn họ già thì bị trĩ, trẻ thì không có hậu môn, nữ nhân thì chưa đến hai mươi ngực đã chảy xệ, thế đã được chưa?”
Tiểu Trình cười ha hả. Mặt Liễu Minh Châu thì xám lại.
Thành bị vây đến ngày thứ mười, cuối cùng chúng tôi cũng nhận được tin tức của Tiêu Huyên. Nguyễn Tinh báo với tôi, quân đội của Tiêu Huyên gặp phải bão tuyết. Tim tôi cũng đông lại, cả người như bị rơi xuống hố băng.
“Rồi sao?”
Mặt Nguyễn Tinh phủ mây đen, lắc đầu. “Chim đưa thư rất khó bay trong bão tuyết. Mà quân Liêu đóng chiếm ngoài thành, hằng ngày có cung thủ chuyên bắn chim bay qua lại.”
Đến những lúc như thế này mới ý thức sâu sắc được sự vĩ đại của người phát minh ra vô tuyến điện.
Trời đông tháng Chạp, chim trên núi Thiên Sơn cũng bay đi sạch, trong vòng vạn dặm không có bóng người, người nước Liêu hùng hục chạy đến tận đây đánh nhau, chắc hẳn là uống nhầm thuốc nên não bị kích thích quá đà rồi.
Nguyễn Tinh giải thích cho tôi nghe: “Mẫn cô nương có biết trận chiến ở Trường Dụ quan năm đó không?”
Tôi gật đầu. “Là trận có vị Phong đại tướng quân đại chiến hoàng đế tiền nhiệm của nước Liêu phải không?”
“Đúng vậy.” Nguyễn Tinh nói. “Đại tư mã đại tướng quân Phong Tranh dĩ thiểu thắng đa, tại Trường Dụ quan đánh bại Liêu tiên đế Da Luật Hạo, phía tây Trường Dụ quan là một dải đất lớn quy về Tề Quốc chúng ta. Da Luật Hạo bị trúng tên, về không được bao lâu thì bệnh chết, còn chưa kịp lập hoàng trữ. Hậu cung của hắn rất đông nhưng lại hiếm con nối dõi, lúc đó thân vương, phiên vương có ý tranh đoạt ngôi vua, sau đó vẫn là hoàng hậu liên hợp hai tướng hạ sát Thúc Khánh vương tự ý vào kinh, giúp cho tam hoàng tử mười hai tuổi đăng cơ. Đó chính là Da Luật Trác bây giờ.”
Nhắc đến Da Luật Trác, hệ thống tình báo của Vân Hương bắt đầu khởi động. “Da Luật Trác có biệt hiệu là Ngọc Diện La Sát, nghe nói là người nam tướng nữ, dung mạo tuyệt đẹp, được nữ nhân nước Liêu rất ngưỡng mộ.”
Tôi cười phá lên. “Yêu một nam nhân tướng mạo như nữ nhân sao? Nữ nhân nước Liêu đều là lesbian cả hay sao?”
Vân Hương dưới sự dẫn dắt của tôi biết nghĩa của từ này. Nàng ta lắc đầu cật lực. “Da Luật Trác đăng cơ lúc thiếu niên, đại thần phụ chính nắm giữ chính quyền, hoàng quyền không có giá trị. Từ khi đăng cơ đến đại hôn đã thanh trừ ba vị đại thần phụ chính để thân chính, trải qua rất nhiều khó khăn, đạp lên cả máu tươi để tiến thân. Những gì đã phải trải qua khiến hắn tính tình nóng nảy, hỉ nộ khó lường, lại còn độc đoán chuyên quyền, hiếu thắng hiếu chiến, lạm dụng vũ lực…”
Tôi cảm động. “Vân Hương đọc bao sách cuối cùng đã có tác dụng.”
Tiểu Trình cũng cảm động. “Nói đúng lắm!”
Tôi kinh ngạc nhìn y. “Sao Trình huynh lại khóc?”
Tiểu Trình lau nước mắt, nói: “Miêu tả kĩ quá khiến tôi sợ mà khóc.”
Tôi ồ lên. “Huynh thật là nhạy cảm.”
“Thế thì…” Liễu Minh Châu cố tìm cách xen vào. “Thế… hắn đến đây là để báo thù?”
Tôi gật đầu. “Điều đó rõ như ban ngày.”
Trí tưởng tượng của Liễu Minh Châu lập tức hoạt động. “Hắn sẽ phá thành, đốt nhà cướp của…”
Tôi cắt ngang lời nàng ta: “Lần này dẫn binh không phải là con trai hoàng đế, mà là Vệ sinh đốc thái vương.”
“Là Vệ đô vương, Mẫn cô nương.” Nguyễn Tinh nén cười sửa lời tôi. “Vệ đô vương tuy không tàn bạo như Da Luật Trác, nhưng hắn lại rất háo sắc…”
Người có dung nhan sắc nước hương trời nhất trong đám người chúng tôi là Liễu tiểu thư lập tức ôm lấy ngực hoảng hốt.
Tôi vỗ vai nàng ta. “Đừng sợ, Yến vương gia nhà cô nương sẽ đến làm anh hùng cứu mỹ nhân.”
Thành bị vây đến ngày thứ mười lăm, nửa đêm lại có một trận động đất nữa xảy ra, lần này rung lắc mạnh hơn các lần trước, đèn cung đình treo dọc hành lang lắc lư rất lâu. Tôi tỉnh giấc vì sợ hãi, theo bản năng định chui xuống gầm giường để nấp, nhưng rung một hồi rồi sau đó mặt đất lại yên ắng trở lại. Tôi căng thẳng, lo lắng đợi rõ lâu, rồi thiếp đi lúc nào không hay.
Trời vừa sáng, gió tuyết thổi ở bên ngoài càng lúc càng mạnh, không có vẻ gì là sẽ ngừng, chưa có tin tức gì của Tiêu Huyên. Chúng tôi thậm chí còn chẳng hề hay biết hiện giờ bọn họ đang gặp lành hay dữ.
Đến người trong vương phủ chúng tôi cũng bắt đầu phải ăn màn thầu và cháo, bên ngoài đã có người chết đói trên đường. Tuy rằng đã chuẩn bị tinh thần từ trước nhưng khi Nguyễn Tinh nói thế, tôi vẫn trào nước mắt.
Tôi không đi ra khỏi cửa, sợ nhìn thấy những cảnh thương tâm. Trước đây, chẳng phải chưa thấy người chết bao giờ, nhưng nhìn thấy những người lớn đang khỏe mạnh, trẻ em ngây thơ mà phải chết đói ngay trước mắt, tôi sợ mình sẽ bị tâm thần phân liệt mất.
Nhưng cùng lúc tôi lại thấy mình như vậy là ích kỷ. Tôi có thể chia phần thức ăn của mình cho những người ngoài kia, nhưng tôi muốn sống, tuy thấy rằng mỗi miếng ăn nhận thêm về mình là một tội ác, nhưng tôi vẫn muốn được sống.
Tôi muốn sống để gặp Tiêu Huyên.
Liễu Minh Châu chống cự được đến giờ mà không đổ bệnh, mặt mũi xanh xao nhưng trước sau vẫn không gục ngã khiến tôi có ý nể phục. Nhưng theo tình trạng bát cháo hoa ngày càng trong vắt có thể soi bóng người trong đó, màn thầu ngày càng bé đi, thì tôi không thể không thừa nhận là cái chết vì đói đã cận kề sát bên.
Tôi đã từng chết một lần, chết vì sự cố thang máy chiếm tỉ lệ quá thấp, bây giờ lại bắt tôi đương đầu với nguy cơ chết đói. Tôi thực sự không muốn chết đói, cả chết ngạt hay chết cháy nữa, đều quá đau đớn. Nếu cái chết là không thể tránh khỏi, tôi hy vọng đó chỉ là chuyện trong nháy mắt, như thể một cái chớp mắt, đến khi mở mắt ra thì linh hồn tôi đã thoát khỏi thể xác. Chứ chết đói là từng giây từng phút nhìn thấy thân thể của mình thoát hình, thấy linh hồn mình tách ra, thực sự quá tàn nhẫn, khiến tâm hồn bị thương tổn gây ảnh hưởng đến kiếp sau.
Chao ơi, nghĩ nhiều như vậy để làm gì? Vẫn chưa thấy tin tức của Tiêu Huyên. Chúng tôi có đói thêm nữa thì ít nhất vẫn còn có giường nằm, có chăn đắp. Còn quân đội của huynh ấy hành quân trong tuyết lớn, thực sự là uống máu lưỡi kiếm, ngủ trên lưng ngựa, ngày tháng gói gọn trong một chữ khổ. Tôi không nên than vãn nhiều.
Tôi lo nghĩ nhiều quá gây ra phản ứng rõ ràng là mất ngủ. Lâu nay, đâu chỉ chạm gối là ngáy khò khò, bây giờ trằn trọc xoay sở mãi mà không sao ngủ được. Nghe tiếng tuyết rơi, trong lòng lạnh giá. Họ hành quân đến đâu rồi? Đường có dễ đi không? Sức khỏe có chịu đựng nổi không? Độc trong người như một quả bom không hẹn giờ, tôi suốt ngày lo lắng mà huynh ấy lại chẳng quan tâm.
Nhưng tôi dự tính sự kiên nhẫn của quân Liêu cũng chỉ được khoảng mười lăm ngày. Trời rét đất đóng băng, chúng ngủ trong lều trại ngoài trời cũng không sung sướng gì, đối với việc đánh trận viễn chinh không thuận tiện. Khi quân đội của Tiêu Huyên đến, trong đánh ra ngoài đánh vào, chúng chỉ gặp thêm rắc rối mà thôi. Đúng ra thì vào lúc dân chúng trong thành đang chết đói thì phải đánh chiếm lấy thành.
Chiến hỏa cháy đến cửa thì cảm giác sẽ thế nào? Tôi và Liễu Minh Châu leo lên thành lầu, dè dặt nhìn xuống.
Mênh mông đồng tuyết, lều trại màu trắng của quân Liêu gần như vô hình giữa mặt đất. Tôi cố gắng tìm kiếm mới nhìn ra những lều trại dày đặc phủ kín đến tận chân trời. Chiếc lều màu trắng to nhất kia, nghe nói là của chủ soái.
Xương quận vương gầy rộc hẳn đi, nhưng lại lấy lại được phần nào vẻ tuấn tú tiêu sái thời trai trẻ, tiếc là đầu tóc đã bạc trắng cả. Liễu Minh Châu rơi nước mắt múc chí mà phù cho ông ta ăn.
Ông ta nhìn thấy vừng xay trong bát, đau đớn cảm thán: “Dân chúng trong thành đã đổi con để ăn thịt, binh sĩ trên thành cũng chịu đói chịu rét, thế mà ta vẫn có chí mà phù để ăn. Minh Châu, ta là chủ nhân của một tòa thành, phải làm gương, sau này binh sĩ ăn gì ta ăn nấy, con đừng mang những thứ này đến cho ta nữa.”
Những lời nói đó khiến mắt tôi cay sè. Liễu Minh Châu thì khóc nức nở.
Tôi nhìn tuyết vẫn rơi dày đặc không ngừng ngoài trời, tâm trạng chùng xuống tận đáy vực, lạnh lẽo như băng hàn, móng tay bất giác cắm chặt vào lòng bàn tay.
Thành bị bao vây đến ngày thứ mười bảy, không biết từ đâu có tin đồn rằng quân đội của Tiêu Huyên gặp phải bão tuyết, toàn quân bị vùi lấp.
Liễu Minh Châu sợ hãi, mặt thất sắc. Tôi lại quả quyết rằng không phải. “Không thể như vậy được! Bão tuyết nào có thể gây ra được chuyện đó? Mười vạn quân được trang bị đầy đủ chứ đâu phải một tiểu đội đột kích? Đứa khốn khiếp nào phao tin đồn nhảm đó, gặp tao tao cắt lưỡi!”
Nguyễn Tinh trầm tư. “Nhưng mãi mà không thấy tin tức của vương gia…”
“Vương gia không làm sao cả!” Tôi tuyên bố, cũng để tự động viên bản thân.
Huynh ấy còn phải quân lâm thiên hạ, chịu chết cóng trong tuyết thì quá là bất công.
Vương phủ giật gấu vá vai đã quá lâu, cuối cùng không cầm cự nổi nữa, màn thầu bột mì giã biệt bàn ăn của chúng tôi đi chi viện cho binh sĩ nơi tiền tuyến. Đàn bà còn đỡ chứ đàn ông quả thực rất khó khăn. Nguyễn Tinh gầy tọp đi. Tôi thấy cậu ta quá khổ sở, tuổi này cậu ta vẫn cần ăn cần ngủ để lớn thêm. Nhưng những ngày sống trong chờ đợi mới là gian khổ nhất.
Quân Liêu hằng ngày vẫn cho người đứng dưới thành chửi rủa, lời lẽ cực kỳ khó nghe. May mà Xương quận vương là người như lão tăng ngồi thiền, không nghe không thấy gì cả.
Có lẽ đến cả ông trời cũng không chịu nổi nữa, đầu giờ chiều hôm đó, mặt đất bỗng nhiên rung chuyển mạnh, trên đầu sấm sét rền vang, lớn đến mức tai tôi ù đi. Tôi ngẩng đầu nhìn trời, có chuyện gì vậy?
Một người hầu ở vương phủ đứng bên cạnh bỗng kêu lên thất thanh: “Trên núi có khói!”
Tôi nhìn theo hướng anh ta chỉ. Trên đỉnh ngọn núi cao nhất phủ đầy tuyết trắng của dãy núi cách thành không xa về phía nam kia đang cuộn trào những lớp khói xanh. Đến mức này mà tôi vẫn không biết chuyện gì đang xảy ra thì coi như tôi đã phí công sống hơn hai mươi năm ở xã hội hiện đại.
Núi lửa phun trào?!
Hai chân tôi mềm nhũn, suýt nữa ngã quỵ. Liễu Minh Châu nghe tiếng cũng chạy ra, mắt tròn xoe, tay bưng lấy miệng.
Tôi hỏi nàng ta: “Trước đây đã từng xảy ra hiện tượng này chưa?”
Liễu Minh Châu run run đáp: “Chưa bao giờ nhìn thấy… Chỉ có hồi nhỏ nghe người già kể Nam Thiên sơn có khói phun lửa, nói rằng thần núi nổi giận. Ta cứ nghĩ đó chỉ là truyền thuyết, ai ngờ… ai ngờ…”
Tôi muốn khóc mà không khóc nổi. “Sao các người không nói sớm?” Nếu biết trước chuyện này, đánh chết tôi cũng không đến cái nơi quỷ tha ma bắt chó ăn đá gà ăn sỏi núi phun lửa này, thà ở lại thành Tây Dao uống giấm còn hơn chạy đến đây ăn bụi núi lửa.
Gió tây thổi mạnh, tôi lập tức ngửi thấy mùi lưu huỳnh trong không khí. Mặt đất tiếp tục rung lắc nhẹ, lớp khói dày đặc từ núi xa bốc lên cuồn cuộn, hiện vẫn chưa nhìn thấy ngọn lửa, nhưng ai mà biết được nó sẽ phun trào lúc nào, liệu bao lâu nữa nó sẽ biến thành Xích Thủy thành thành cổ Pompeii?
Tôi vội vàng bảo Nguyễn Tinh đi nghe ngón tin tức ngoài thành, tìm cách thoát thân. Nhưng phúc bất trùng lai họa vô đơn chí, Đồng Nhi hấp tấp chạy đến báo với tôi rằng Vân Hương đã đổ bệnh.
Bao ngày nay, không ngày nào tôi không phải trải qua sợ hãi, lo lắng, đến giờ tinh thần đã kiệt quệ, nhưng khi nghe thấy tin này, vẫn thấy một luồng khí lạnh từ lòng bàn chân xộc lên.
Vân Hương nằm hôn mê bất tỉnh trên giường, mặt hồng rực, trán nóng giãy.
Đồng Nhi nói: “Vân Hương tiểu thư đã mệt mấy ngày nay rồi, thấy tiểu thư cả ngày vất vả nên không muốn nói, sợ tiểu thư thêm lo lắng.”
Tôi quay mặt đi lau nước mắt, dặn dò Đồng Nhi: “Xúc mấy chậu tuyết vào đây, chúng ta sẽ làm giảm sốt cho nàng ta.”
Không có thuốc kháng sinh, nhưng cũng không thể để Vân Hương sốt cao biến chứng thành viêm phổi.
Sáng hôm sau, Vân Hương đã hạ sốt nhưng vẫn chưa tỉnh. Bên ngoài, núi lửa vẫn tiếp tục sục sôi, không khí đầy bụi tro và mùi thối, có cả những tảng đá lớn lăn xuống.
Nhiệt độ ngoài trời tăng lên một chút, nhưng tôi cảm thấy rất ngột ngạt khó thở. Người trong vương phủ ai cũng hoảng loạn, đi lại bồn chồn không yên, tôi còn nghe thấy những tiếng kêu la sợ hãi của dân chúng ngoài kia nữa. Nhưng thành vẫn bị bao vây, chúng tôi thoát bằng cách nào đây?
Liễu Minh Châu hai mắt đỏ hoe đến tìm tôi. “Làm thế nào bây giờ? Người già bảo rằng, một khi thần núi đã phát hỏa thì cả tòa thành đều bị vùi trong nham thạch. Chẳng phải lúc đó… không cần đợi quân Liêu tấn công nữa, chúng ta cũng không sống nổi.”
Núi lửa vẫn chưa đến độ phun trào mạnh nhất, miệng núi vẫn còn mờ mịt. Tôi mù mờ về địa lý, chỉ có thể ôm tâm lý lạc quan mà suy đoán, có thể một, hai ngày nữa núi lửa vẫn chưa phun trào. Khi nào dung nham trào ra, tôi vẫn còn chút độc dược ở đây để tự kết thúc. Cái chết không đáng sợ, tôi quen rồi.
Tôi đang lẩm bẩm thì Đồng Nhi lên tiếng khuyên tôi nên đi nghỉ ngơi một chút. Dù sao cũng chẳng có gì để làm, không ngủ thì làm gì? Ngồi đợi bị chôn trong tro bụi sao?
Mấy ngày này tôi bị mất ngủ nghiêm trọng, mãi mới ngủ thiếp đi được một lát thì lại mơ một giấc mơ hỗn loạn, những người và những việc kỳ quái lượn như đèn kéo quân trước mặt, hết vụ này đến vụ khác khiến tôi không kịp tiếp nhận. Nếu như đây được tính là ngủ thì thà tỉnh còn được nghỉ ngơi. Nhưng bệnh đau nửa đầu đã trầm trọng đến mức không chỉ là đau nữa, mà cảm giác đầu như bị nứt ra, sắp nổ tung. Hai mắt tôi khô khốc, không thiết ăn uống. Nghĩ lại nguyên nhân của chuyện này thì có lẽ là từ lúc tôi chăm sóc bệnh nhân trúng độc đã bị nhiễm lạnh.
Cố gắng ép mình nằm xuống, nhưng không thể ngủ được, cảm thấy còn mệt hơn. Tôi lại đành mò dậy, đi thăm Vân Hương xem thế nào.
Đi đến bên ngoài phòng Vân Hương, đang giơ tay định đẩy cửa thì bỗng nghe tiếng loảng xoảng bên trong, có vật gì đó rơi xuống đất vỡ vụn, sau đó có tiếng người khẽ kêu lên. Tôi nhận ra đó là giọng Vân Hương, vội vã xông vào.
Rèm vẫn buông kín, bên trong tối tăm, mùi thuốc lẫn mùi hương xông nặng nề u uẩn trong không khí. Tôi bước qua tấm bình phong, nhìn thấy bà vú chăm sóc nàng ta đang ngủ gục một bên, còn nàng ta đang cố nhổm lên với tách trà.
Tôi vội mắng mỏ: “Muội mới đỡ sốt, sao không gọi người hầu tới giúp?” Nói rồi rót một tách trà đưa cho nàng ta.
Vân Hương ngại ngần cười, nhìn sang bà vú đang ngủ, nói khẽ: “Đại nương mệt rồi.”
Tôi bắt mạch cho bà, đúng là bà bị mệt mỏi. Bà vú đã ngoài năm mươi, cũng không còn khỏe mạnh nữa.
Vân Hương nói: “Tỷ, sao tỷ chưa đi nghỉ?”
Tôi thở dài. “Mất ngủ.”
Nàng ta rất lo lắng. “Nghe nói thần núi nổi giận, đỉnh núi phát hỏa?”
Tôi than: “Thiên tai địch họa đều đến cả.”
Vân Hương bồn chồn. “Hôm nay đã là ngày thứ mười tám, lúc nào vương gia mới đến cứu chúng ta đây?”
Tôi chán chường. “Ta cũng không biết. Núi lửa phun trào còn đáng sợ hơn chiến tranh rất nhiều. Trận chiến này xảy ra không đúng lúc chút nào.”
Núi lửa vẫn âm ỉ sục sôi, dường như chưa muốn phun trào uy lực của mình ra tứ phía. Nhưng đến trưa thì Vân Hương lại bắt đầu sốt cao. Tôi khám kĩ càng cho nàng ta một lượt, nhưng không tìm ra nguyên nhân gây bệnh, trong lòng bắt đầu hoảng loạn.
Tôi gọi Tiểu Trình đến, bảo khám lại lần nữa nhưng vẫn không tìm ra nguyên nhân. “Chắc là trúng gió, bị đi bị lại.”
Tôi đang lau người để giúp Vân Hương hạ sốt thì Liễu Minh Châu gọi. Nàng ta nói rất nghiêm túc: “Việc này cho người ở làm là được rồi, cô phải nghỉ ngơi một chút. Cô có biết trông cô bây giờ đáng sợ thế nào không?”
Vậy ư? Tôi sờ lên mặt.
Tiểu Trình đứng bên cũng gật đầu. “Cả thể lực lẫn tinh thần của cô đều đã đến cực hạn rồi, nếu không nghỉ ngơi, sau Vân Hương sẽ đến lượt cô gục ngã.”
Tôi không còn cách nào khác, bị Tiểu Trình cưỡng chế lôi đi.
Trở về phòng, tôi không còn sức cởi giày nữa, ngã xuống giường.
Tiểu Trình đắp chăn cho tôi, nói: “A Mẫn, mấy ngày nay tôi quan sát cô, thấy cô thật là tốt, rất đáng khen…”
Tôi chưa kịp nghe đoạn sau y nói gì thì Nguyễn Tinh bỗng đẩy cửa vào, hưng phấn, kích động kêu lớn: “Vương gia đến rồi!”
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.