Chương 31: Hồi 31
Liễu Tàn Dương
21/05/2013
Bạch Ngọc Quyên bất giác ngẩn người, vội qùy sụp xuống bi thiết nói :
- Gia gia, Quyên nhi bất hiếu, mong lão nhân gia tha thứ tội.
Bạch Long Xuyên âu yếm vuốt tóc nàng, thở dài nói :
- Quyên nhi, cá tính tranh cường hiếu thắng của ngươi tuy là do gia gia quá nuông chiều mà nên, nhưng gia gia biết ngươi mồ côi từ thuở bé, không cha không mẹ nên sinh tính ương ngạnh và tự ti mặc cảm, đó không thể hoàn toàn trách ngươi được. Thôi, đứng lên đi! Gia gia với Lạc thúc công đã quyết định, đêm nay chính thức thành hôn.
Bạch Ngọc Quyên lắc đầu :
- Không! Gia gia, Quyên nhi không muốn...
Bạch Long Xuyên trầm giọng :
- Quyên nhi, ngươi đã không còn bé nữa, chả lẽ còn chưa hiểu chuyện sao? Ngươi đã có con, sao thể không thành hôn? Hiện ngươi là thân phận gì, chả lẽ muốn theo gương cha mẹ ngươi hay sao?
Bạch Ngọc Quyên theo Bạch Long Xuyên khôn lớn, chưa bao giờ nghe ông nói câu này, ngẩng mặt lên hỏi :
- Gia gia nói vậy nghĩa là sao? Chả lẽ gia phụ mẫu chưa thành hôn mà đã sinh ra Quyên nhi rồi ư?
- Không sai, chính vì vậy gia gia với Lạc thúc công đều hết sức tức giận, hai người lúc ấy vốn đã có thành kiến với nhau, lại xảy ra chuyện như vậy, dĩ nhiên không thể chấp nhận được. Do đó đã bị kẻ gian hãi hại, gây nên mối thù hận hai nhà, và cha mẹ ngươi cũng chết một cách oan ức...
Bạch Long Xuyên nói đến đó, ông với Lạc Kỳ đều đã mắt ngập lệ. Tề Lỗ song tàn vốn là bộc tùng trung thành của Vô Sao Kiếm Lạc Dật và Ma Già Tiên Tử Bạch Băng, lúc này cũng nước mắt chảy dài.
Thiên Đài Kỳ Si lớn tiếng nói :
- Hai vị sao thế này? Khóc đến phát nghiện rồi hả? Đêm nay là ngày mừng lớn của bọn trẻ, chúng ta phải vui lên mới đúng chứ?
Hắc Đao Khách phụ họa :
- Đúng rồi, mặc dù họ là phụng mệnh kết hôn, nhưng dẫu sao cũng là lần đầu tiên trong đời...
Dư Mộng Chân bĩu môi, cười ngắt lời :
- Hai vị không bao giờ nói được một câu nào nghiêm túc, dẫu sao cũng là bậc tiền bối, như vậy bọn trẻ kính trọng hai vị sao được?
Hắc Đao Khách cười hóm hỉnh :
- Dư cô nương uổng phí tuổi xuân, phòng không đơn chiếc cả đời người, dĩ nhiên cũng chưa từng nếm trải mùi vị ấy, thật không ngờ ba tiểu tử này sinh sau đẻ muộn mà lại về đích trước...
Dư Mộng Chân đỏ mặt, giơ tay định đánh Hắc Đao Khách, Thiên Đài Kỳ Si lớn tiếng nói :
- Trần huynh, câu nói ấy của Trần huynh đã khích dậy linh cảm của Lữ mỗ, có lẽ đêm nay phải cử hành một lúc hai hôn lễ, đó gọi là song hỷ lâm môn.
Hắc Đao Khách reo lên :
- Tuyệt! Tuyệt quá! Bạch huynh, Lạc huynh, hai vị hãy rút thăn quyết định, ai rút được thăm đỏ kể như nguyệt lão buộc dây tơ hồng, sẽ kết duyên với Dư cô nương...
Lạc Kỳ và Bạch Long Xuyên tuy tuổi đã lục tuần nhưng cũng không khỏi đỏ mặt, và Dư Mộng Chân lại càng e thẹn hơn. Trong nhà trần ngập tiếng cười, ngay cả Bạch Ngọc Quyên cũng không nén nổi phải bật cười.
Thế là mây đã tan, trời lại sáng, động phòng sớm đã được chuẩn bị, nến hoa cũng đã được thắp lên. Dư Mộng Chân trang điểm cho hai nàng, lòng thầm cảm khái vô cùng, hồng nhan đã sắp phai tàn, trước tình cảnh này lòng càng thêm xót xa. Nhưng Lạc Kỳ và Bạch Long Xuyên lòng hiểu thấu rõ, hai người cũng hết sức ray rứt. Thế nhưng, chuyện này không còn vãn hồi được nữa, kiếp này họ chẳng thể đền bù tấm chân tình của Dư Mộng Chân được nữa.
Vái lạy trời đất xong, đưa vào động phòng, Bạch Ngọc Quyên sinh con đầy tháng, dĩ nhiên không thể ái ân, thế là Bạch Diêu Hồng đã được trọn hưởng.
Hôm sau, Lạc Kỳ và Bạch Long Xuyên đưa Hồ Thiết Sanh vào phòng bí thất, bảo chàng kể từ nay phải khổ luyện võ công, tạm không gần gũi hai nàng nữa.
Sau một tháng miệt mài nghiên cứu và được hai vị lão nhân trợ giúp, Hồ Thiết Sanh đã tham ngộ được Huyền Huyền Nhị Thức, đương nhiên cũng huyền ảo hơn Huyền Huyền Nhất Thức.
Hồ Thiết Sanh dùng Ma đao thi triển Huyền Huyền Nhất Thức và Huyền Huyền Nhị Thức, uy lực thật khủng khiếp, Lạc Kỳ và Bạch Long Xuyên tin chắc lúc này Thiết Ông Xung không còn đáng sợ nữa. Trong khi chiêu thứ ba Huyền Huyền Thủ chưa nghiên cứu ra, trong võ lâm bỗng nổi lên hai tuyệt phái, một là Phi Hồn bảo trong Mang Sơn, hai là Hận Thế giáo trong Ngũ Chỉ sơn trên đảo Hải Nam. Thật ra thì Lạc Kỳ và Bạch Long Xuyên hồi một năm trước đã phát hiện có một số nhân vật thần bí xuất hiện trên giang hồ, song vì hành tung của họ hết sức bí ẩn nên chưa dò la được rõ ràng, và đồng thời hai ông cũng chẳng bận tâm bởi một Thiên Nhất bang cũng đã khó đối phó rồi.
Giờ đây lại nổi lên hai tuyệt phái và đều là hung tàn bạo ngược, bất luận hắc đạo hay bạch đạo, chưa đầy một năm đã sát hại hằng mấy trăm người, khiến toàn thể võ lâm điêu đứng kinh hoàng. Lúc này Lạc Kỳ và Bạch Long Xuyên triệu tập mọi người bàn tính kế sách, và quyết định từ nay có ra ngoài là phải phối hợp lẫn nhau, đồng thời còn quy định ám hiệu liên lạc, một đóa hoa mai là liên lạc hành tung, hai đóa hoa mai là cần trợ giúp, ba đóa hoa mai là cần cứu khẩn cấp.
Quần hùng được chia là bốn nhóm, nhóm thứ nhất là Lạc Kỳ xuất lĩnh Tề Lỗ song tàn, nhóm thứ nhì là Bạch Long Xuyên xuất lĩnh Trung Nguyên ngũ kỵ sĩ, nhóm thứ ba là Thiên Đài Kỳ Si với Hắc Đao Khách và Tiểu Lục Tử, nhóm thứ tư là Dư Mộng Chân với Văn Thân Dã Tẩu Tư Mã Ngưu, Động Đình Thần Quân Tề Cảnh Úy, Hồ Thiết Sanh, Bạch Ngọc Quyên, Bạch Diêu Hồng và nhũ mẫu.
Nhóm thứ tư thực lực mạnh nhất, đó là vì phải bảo vệ cho hai nàng và bé Tiểu Sanh, nhưng lúc này võ công của Hồ Thiết Sanh cao hơn hết, có thể tiếp ứng ba nhóm khác bất kỳ lúc nào.
Mục tiêu dọ thám của họ đương nhiên là đến Mang Sơn trước, từ lăng Tấn Tuyên Đế đến Mang Sơn chỉ chừng bốn năm mươi dặm đường, lúc chiều tối đã tiến vào Mang Sơn. Văn Thân Dã Tẩu khi xưa cũng đã từng thầm yêu trộm nhớ Dư Mộng Chân, giờ đây lão đã tóc bạc phơ, trong khi Dư Mộng Chân có cách trú nhan, sắc đẹp chẳng kém gì khi xưa, đi chung với bà cảm thấy rất là gò bó.
Thế nên, lão bàn tính với Động Đình Thần Quân, hai người quyết định đi trước dò đường, Tề Cảnh Úy nói lại ý kiến ấy với Dư Mộng Chân, Dư Mộng Chân liền hiểu ý Tư Mã Ngưu, nhưng bà chịu trách nhiệm lãnh đạo nhóm, không yên tâm nói :
- Hai vị không nên vậy, Lạc huynh và Bạch huynh đã phân phối như vậy hẳn nhiên là có nguyên nhân, nếu phân tán lực lượng sẽ suy giảm...
Tư Mã Ngưu tiếp lời :
- Dư cô nương hãy yên tâm, cho dù gặp phải đại địch, Tư Mã Ngưu bỏ chạy hẳn không thành vấn đề. Hơn nữa, lời đồn đại chưa chắc đúng sự thật.
Dư Mộng Chân nghiêm mặt :
- Thật ra đó không phải là lời đồn đại, mà là hai vị Lạc huynh và Bạch huynh đã chính mắt trông thấy, những người thần bí ấy khinh công rất cao và thủ đoạn cực kỳ tàn ác.
Tư Mã Ngưu cười :
- Thủ đoạn của Tư Mã Ngưu này cũng chẳng hiền từ, để rồi xem ai tàn ác hơn ai. Thôi đi, hai ta tiên phong.
Đoạn liền cùng Tề Cảnh Úy bỏ đi trước, Dư Mộng Chân lắc đầu nói :
- Lạc Kỳ và Bạch Long Xuyên lại cứ bảo lão thân phụ trách nhóm này, hạng nữ lưu như lão thân đôi lúc thật khó mà nói chuyện, họ ít người thế cô, vạn nhất gặp phải cao thủ cũng khó mà bình yên thoát thân.
Bạch Ngọc Quyên bỗng hỏi :
- Dư tiền bối với gia tổ và Lạc tiền bối khi xưa đều là sinh tử chi giao, nhưng... nhưng...
Bạch Ngọc Quyên ngại không dám nói tiếp, Dư Mộng Chân mỉm cười :
- Tiểu nha đầu ngươi có gì cứ hỏi, đằng nào đó cũng là một điều bí mật đã công khai rồi.
- Theo như vãn bối biết, giữa nam nữ không có tình bạn thật sự, nếu có thì đó là tình yêu, chẳng hay tiền bối có tình cảm với vị nào nhiều hơn?
Hồ Thiết Sanh cho là một vãn bối không nên đưa câu hỏi như vậy, vội nháy mắt với Bạch Ngọc Quyên.
Nhưng Dư Mộng Chân không hề có ý trách nàng, thở dài nói :
- Tục ngữ có câu, có trí không kể tuổi trẻ, không trí uổng sống trăm năm! Nếu ngươi hỏi câu này hồi mấy mươi năm trước, lão thân chắc hẳn không tin, nhưng giờ thì lão thân đã tin, cũng kể như ngươi đã dạy cho lão thân một bài học... Trước kia lão thân cứ nghĩ là giữa lão thân với họ chỉ đơn thuần là tình bạn, và giữa nam nữ mà giữ được tình bạn như vậy trọn đời thì thật là một niềm vui lớn, nhưng thật ra thì ý nghĩ ấy đã sai lầm.
Bạch Diêu Hồng xen lời :
- Thật ra tiền bối cũng không cần lo ngại, xưa nay người già kết hôn là chuyện rất bình thường, chẳng hay tiền bối thật sự yêu vị nào vậy?
- Nghiêm khắc mà nói, người lão thân yêu là Lạc Kỳ, nhưng lúc bấy giờ lão thân lại không thừa nhận, luôn làm những chuyện vớ vẩn trái với ý muốn của mình, luôn tự lừa dối mình, tỏ ra tình cảm dành cho hai người như nhau, vì vậy hai người đều không tiện bày tỏ tâm ý riêng với lão thân. Thời gian thấm thoát, xuân xanh qua đi, lòng hai người hẳn là rất ray rứt, nhưng lỗi là do lão thân, không thể trách họ được.
Hồ Thiết Sanh nghe giọng nói Dư Mộng Chân đầy xót xa luyến tiếc, vội lái sang chuyện khác nói :
- Dư tiền bối có từng gặp gia sư Vô Sao Kiếm Lạc Dật và sư mẫu Ma Già Tiên Tử Bạch Băng bao giờ chưa vậy?
Dư Mộng Chân gật đầu :
- Đương nhiên là có, và lão thân còn truyền dạy họ một số võ công nữa! Lạc Dật và Bạch Băng thiên tư rất cao, có lẽ không kém hơn ngươi, nhưng có điều Lạc Dật tính rất hiếu thắng, nên mới giành được ngoại hiệu Vô Sao Kiếm.
- Dường như có người nói, rất có thể gia sư và gia mẫu chưa chết, theo tiền bối thì sao?
Dư Mộng Chân trầm ngâm :
- Đúng lý ra thì không thể có vậy, bởi chuyện đã mấy mươi năm, nếu như họ còn sống thì đã sớm hiện thân rồi. Nhưng cũng rất khó khẳng định, đôi khi cũng có những chuyện không thể nào ngờ được.
Bạch Ngọc Quyên lại hỏi :
- Võ công của gia phụ Lạc Dật so với Động Đình Thần Quân thế nào?
- Người luyện võ tư chất là quan trọng hơn hết, tục ngữ có câu “sư phụ vào cửa, tu hành mỗi người”, quả là không sai. Có thể người ngoài cho Lạc Dật là nghĩa tử của Lạc Kỳ, nên không khỏi thiên vị truyền cho tuyệt học nhiều hơn, thật ra nghĩ như vậy là sai. Theo như lão thân biết, Lạc Kỳ không hề có lòng thiên vị, nhưng thành tựu của Tề Cảnh Úy so với Lạc Dật thì kém rất xa.
Lúc này họ đã đi đến trên một ngọn núi cao, nhũ mẫu đèo Tiểu Sanh trên lưng, Bạch Diêu Hồng và Bạch Ngọc Quyên đi kềm hai bên, Hồ Thiết Sanh thỉnh thoảng lại đến hôn con trẻ một cái, tình cha con và vợ chồng hiện rõ trên mặt họ.
Dư Mộng Chân bỗng trở tay nói :
- Mọi người hãy nhìn xem, có lẽ đó chính là Phi Hồn bảo.
Ba người chú mắt nhìn, chỉ thấy trong thâm cốc có một tòa lâu đài đồ sộ nguy nga, dưới màn đêm nhập nhòa và có thể thoáng thấy ánh đèn và tiếng trống từng hồi văng vẳng vọng đến. Trong chốn hoang sơn đêm tối, tiếng trống nghe thật kinh tâm động phách, từng hồi từng hồi, gây ra cảm giác ghê rợn tột cùng.
Dư Mộng Chân nghiêm nghị nói :
- Chỉ mới mấy tháng không đến Mang Sơn, chẳng ngờ nơi đây đã xây cất một tòa bảo lớn thế này mà không ai hay biết, xem ra Phi Hồn bảo này qủa là không nên khinh thường, chẳng rõ Tư Mã Ngưu và Tề Cảnh Úy có vào trong bảo hay không?
Năm người đi xuống núi, phóng đi vào thâm cốc, Dư Mộng Chân nói :
- Hồng nhi và Quyên nhi hãy tìm một chỗ kín đáo ở gần đây để tiện bảo vệ cho nhũ mẫu và Tiểu Sanh, lão thân với Hồ Thiết Sanh vào bảo thám thính được rồi.
Bạch Diêu Hồng không đồng ý :
- Không, chúng vãn bối đi nữa.
Dư Mộng Chân dịu giọng :
- Hồng nhi, các ngươi phải vâng lời, nên biết nếu đây là các môn phái thông thường thì Lạc Kỳ và Bạch Long Xuyên không bao giờ xem trọng như vậy, các ngươi đi theo chẳng những không giúp gì được mà còn vướng bận thêm, làm cho tinh thần lão thân và Hồ Thiết Sanh bị phân tán, nếu gặp cao thủ, nhũ mẫu với Tiểu Sanh đều hết sức nguy hiểm.
Hai nàng không dám phản đối, tìm một sơn động kín đáo ẩn thân, Dư Mộng Chân và Hồ Thiết Sanh lập tức phóng đi về phía Phi Hồn bảo.
Gió núi lồng lộng, hàn khí buốt xương, tuyết to cỡ lông ngỗng lại lả tả rơi xuống. Phi Hồn bảo đã phủ lấp một lớp trắng xóa, tiếng trống trong bảo kinh tâm động phách, tường bảo cao đến năm trượng, mỗi cách khoảng năm trượng đều có một ngôi lầu, hiển nhiên bên trong đều có cao thủ đắc lực canh gác.
Hai người phi thân lên trên một ngọn cây tùng cao to, đưa mắt nhìn vào trong bảo, nhưng vì tường bảo cao đến năm trượng, đứng trên cây tùng vẫn không nhìn thấy được cảnh vật bên trong.
Hồ Thiết Sanh nói :
- Dư tiền bối, chúng ta hãy vào trong.
Vừa dứt lời, bỗng gần đó vang lên một tiếng nói sắc lạnh :
- Đã đến rồi đương nhiên là phải vào trong bảo, nếu không thì là đầu hổ đuôi rắn còn gì.
Hai người cùng quét mắt nhìn quanh, chỉ thấy một bóng người từ trên một cây tùng to vọt lên, lướt đi vào bảo, loáng cái đã mất dạng, thân pháp hết sức nhanh nhẹn.
Dư Mộng Chân nghiêm giọng :
- Hành tung của chúng ta đã bị phát giác, thôi thì cứ vào, nhưng phải hết sức cẩn thận.
Hai người phi thân vượt qua tường rào, chân vừa chạm đất, bất giác cùng bật lên một tiếng kinh ngạc. Thì ra đã có tám quái nhân đứng quanh, thảy đều mặc y phục trắng và đội nón trắng của người chết, mặt vàng như sáp, mắt chỉ có tròng trắng chứ không có tròng đen.
Hồ Thiết Sanh tuy võ công cao cường, nhưng chưa từng nhìn thấy người khủng khiếp thế này, bởi tám quái nhân đứng yên trên đất hệt như tám khúc gỗ, không chút động đậy, kể cả đôi mắt trắng đã cũng đứng yên một chỗ.
Thoạt nhìn họ dường như không nhìn hai người, nhưng thật ra họ đang nhìn hai người chòng chọc, Dư Mộng Chân tuy cảm thấy ớn lạnh, nhưng bà là người từng trải qua nhiều sóng to gió cả, trong đầu nghĩ nhanh, bỗng trầm giọng nói :
- Các vị có phải là Âm Ty Bát Cổ (mù) huynh đệ họ Quảng đã thất tung hồi mấy mươi năm trước?
Một trong số họ mặt co giật một hồi, mới cất giọng the thé nói :
- Đã biết đại danh của bổn huynh đệ, còn chưa mau cút khỏi đây ngay.
Hồ Thiết Sanh cười khẩy :
- Các vị dù là tám người sắt, kẻ này cũng đánh cho nát vụn, xem chưởng!
Huyền Huyền Nhất Thức tung ra, nhưng chỉ vận dụng bảy thành chân lực, chỉ thấy trong vòng mấy mươi trượng mưa rơi lất phất, tuyết trên mặt đất tan chảy thành nước, tuyết trên không cũng hóa thành mưa. Chỉ nghe mấy tiếng rú ghê rợn, Âm Ty Bát Cổ cùng bị đánh văng bay ra xa hơn trượng, lủi vào một khu rừng trúc mất dạng.
Dư Mộng Chân cảm khái nói :
- Võ học tuyệt thế quả nhiên khác thường, trên cõi đời này e không còn mấy ai thân thủ cao hơn ngươi nữa.
- Đó cũng là nhờ ơn tài bồi của các vị tiền bối, nếu chỉ một mình vãn bối, hẳn cũng không thể tham ngộ được tuyệt học huyền ảo này.
- Ngươi cũng không nên quá khiêm tốn, nếu luận tư chất, cũng chỉ sư phụ ngươi Lạc Dật mới có thể sánh tương đương ngươi thôi.
Lúc này, tiếng trống kinh tâm động phách kia đột nhiên trở nên gấp rút, rồi thì ánh đèn Phi Hồn bảo vụt tắt, bốn bề tối mịt.
Dư Mộng Chân trầm giọng :
- Chúng ta phải tiếp cận khu nhà chính giữa ngay trung tâm, đứng ở chỗ trống thế này rất là bất lợi.
Hai người liền tức phóng đi về phía dãy nhà chính giữa, dãy nhà này gồm mười mấy gian, trông bề ngoài rất là trang nhã, hệt như phủ đệ của quan lại.
Trong tòa nhà im lìm như một ngôi cổ mộ, và tiếng trống nơi xa cũng đột nhiên ngưng lặng, cả tòa nhà Phi Hồn bảo tĩnh lặng tới mức một chiếc lá rơi cũng có thể nghe rõ.
Đây chính là sự yên lặng trước khi giông tố kéo đến, dù ai can đảm đến mấy cũng không khỏi ghê sợ, Dư Mộng Chân khoát tay, nhè nhẹ đẩy mở cánh cửa gỗ khép hờ, rồi lướt nhanh vào bên trong.
Hồ Thiết Sanh cũng theo sau vào, trong nhà tối om, nhưng nhãn lực hai người rất tinh, có thể loáng thoáng thấy trong nhà được bài thiết rất sang trọng và trang nhã.
Đây là một gian to, hiển nhiên hai bên còn có rất nhiều gian ngầm, có cửa thông nhau, nhưng những cánh cửa ấy vẫn khép hờ.
Bỗng, tiếng guốc lọc cọc từ trong gian phòng bên trái vọng ra, dường như có một nữ nhân yếu đuối đang đi lại trong ấy.
Hồ Thiết Sanh bất giác rợn người, Dư Mộng Chân liền tức tung mình về phía gian phòng ấy, cách không nhẹ nhàng vung tay đẩy cửa, hai cánh cửa lập tức mở hé ra.
Tiếng lọc cọc bên trong vụt ngưng bặt, hai người lập tức vận công vào song chưởng, lướt nhanh và trong.
Gian phòng này bày trí khác hẳn gian phòng bên ngoài, trông giống như khuê phòng của nữ nhân, trong phòng ngát hương thơm, nhưng không có một bóng người.
Dư Mộng Chân bất giác rợn người, hệt như đang dấn thân vào trong qủy vực.
Tiếng guốc lọc cọc lại từ gian trong vọng ra, ngoài tiếng động ấy, bốn bề hoàn toàn im lặng, chỉ có bóng cây bên ngoài in trên cửa sổ, không ngừng lay động như ma qủy nhảy múa.
Hồ Thiết Sanh không tin trên đời có ma quỷ, lẳng lặng xô cửa đi vào bên trong, gian phòng này cũng không có một bóng người, chỉ ngửi thấy hương thơm thoang thoảng như vừa có nữ nhân ở đây.
Gian nhà trong lại vang lên lọc cọc, Hồ Thiết Sanh chẳng tin tà ma, liền chớp nhoáng xuất chưởng phi thân, gian trong vẫn như trước, dư hương thoang thoảng nhưng không có bóng người.
Dư Mộng Chân bực tức nói :
- Thôi, chúng ta đừng chơi trò cút bắt với họ, họ quen thuộc địa hình nên luôn giành lấy tiên cơ, dĩ nhiên chúng ta khó thể bắt gặp. Đi, chúng ta đi nơi khác xem thử.
Bỗng nghe tiếng tỳ bà du dương từ gian trong vọng ra, phen này Dư Mộng Chân cũng động lòng hiếu kỳ, tung mình nhanh như chớp vào gian trong.
Gian này không giống khuê phòng nữ nhân, mà giống như một thư phòng, trên bàn có văn phòng tứ bảo, vách treo các loại đàn tranh và đàn tỳ bà, dây đàn vẫn còn rung động như vừa có người khẩy.
Dư Mộng Chân kéo tay Hồ Thiết Sanh nói :
- Mục đích của chúng ta đến đây là thám thính, không cần phải nhọc tâm đến những chuyện vớ vẩn, đi thôi.
Nào ngờ bà vừa dứt lời, bỗng nghe tang một tiếng, chiếc tỳ bà trên vách như vừa có người khảy một cái, trong đêm khuya tĩnh lặng nghe như lòng bị khuấy động vậy.
Ma quỷ! Hồ Thiết Sanh chẳng tin nhưng trong phòng không người mà chiếc đàn tỳ bà trên vách lại có thể tự phát ra âm thanh, chẳng phải ma quỷ là gì?
Dư Mộng Chân tuy giàu kinh nghiệm đời, nhưng dẫu sao cũng là nữ lưu, không khỏi thoáng biến sắc qua mặt, trong một thoáng sững sờ, chiếc đàn trên vách đã trỗi lên, đồng thời còn có tiếng hát thánh thót hòa theo.
Tiếng hát du dương hàm chứa vô cùng tận những thê lương, như một thiếu phụ phòng không chiếc bóng, cô đơn trong đêm trường, cất lên tiếng lòng ai oán.
Hồ Thiết Sanh vận hết nhãn lực nhìn, những sợi dây của các nhạc khí trên vách đều như khe khẽ rung động, nhưng không thấy bóng người.
Bỗng, tiếng nhạc vụt ngưng bặt, dư âm phảng phất hồi lâu chưa dứt.
Dư Mộng Chân nói :
- Hãy khoan, để lão thân xem thử rồi hẵng tính, không chừng có thể phát hiện bí mật ngay cũng nên.
Hồ Thiết Sanh bán tín bán nghi, chỉ thấy Dư Mộng Chân đi đến bên vách, dùng móng tay nhẹ chọc vào chiếc đàn tỳ bà to, chiếc đàn ấy xê dịch sang bên nửa thước, trên vách hiện ra một lỗ nhỏ cỡ miệng ly, thì ra trong vách trống rỗng.
Hồ Thiết Sanh hết sức bội phục, xem ra dù võ công cao đến mấy, nếu không có kinh nghiệm thì cũng vẫn luôn bị vấp ngã.
Bởi vách tường rỗng, chuyện quái quỷ này đã bị vạch trần, hiển nhiên tiếng đàn không phải phát ra từ nhạc khí trên vách mà là từ phòng bên kia vọng sang. Còn về việc dây đàn trên vách rung động đó là do sức của tiếng đàn gây nên, chẳng có chuyện gì huyền bí cả.
Hai người nhìn nhau cười, đi ra khỏi phòng, phóng đi về phía một bức tường thấp, vượt qua bên kia, kinh ngạc đến suýt bật ra tiếng, thì ra đây là một hoa viên nhỏ, giữa có một tiểu lầu rất tinh xảo, trong lầu không hề có ánh đèn.
Trước tiểu lầu có một ngôi đình bát giác rộng lớn, diện tích không dưới tám trượng, trong đình có mười mấy đại hán đứng vòng quanh, trong số một người tay cầm thùng nước to, và một người tay cầm một chiếc quạt to.
Đại hán xách thùng đang xối nước lên người một lão nhân mình trần, thì ra trên người lão nhân ấy đã đóng một lớp băng mỏng.
Lão nhân ấy bị trói vào một trụ đá, quay lưng về phía này nên Hồ Thiết Sanh và Dư Mộng Chân không nhìn thấy rõ mặt, chỉ thấy đại hán cầm quạt đang ra sức quạt mạnh vào người lão nhân ấy.
Đại hán ấy như là cao thủ võ lâm, sức quạt rất mạnh, phát ra tiếng vù vù, đồng thời đại hán kia không ngừng xối nước lên người lão nhân.
Nước vừa xối lên, liền tức đóng thành băng, nhưng Hồ Thiết Sanh tin chắc là lão nhân ấy chưa chết, bởi vì trong miệng ông hãy còn hơi trắng nhàn nhạt bốc lên.
Dư Mộng Chân nắm tay Hồ Thiết Sanh, lách vào sau mấy cây mai già, đưa mắt nhìn, chỉ thấy một đại hán tay cầm búa nhỏ nện lên người lão nhân, băng vụn rơi xuống ào ào.
Điều lạ lùng là trên người lão nhân đóng băng, nhưng da thịt vẫn hồng hào và bốc hơi ngùn ngụt, và một đại hán tiếp tục xối nước, một đại hán tiếp tục ra sức quạt.
Cứ thế, trên người lão nhân đóng ba lần băng và cũng nện vỡ rơi ba lần, trong đêm tuyết rơi lạnh buốt thế này, đừng nói một lão nhân, dù là thanh niên trai tráng cũng đã chết cóng từ lâu.
Nhưng lão nhân vẫn chưa chết, và cũng không hề phát ra một tiếng rên nào.
Hồ Thiết Sanh đưa mắt nhìn Dư Mộng Chân, ra vẻ không hiểu.
Dư Mộng Chân truyền âm nói :
- Có lẽ họ đang luyện tà công gì đó, còn không thì là tra tấn lão nhân ấy, nhưng giả thiết thứ nhì không vững, bởi không có ai lên tiếng tra khảo.
Thốt nhiên, một tiếng nói lạnh tanh từ trong tiểu lầu vọng ra :
- Các vị hà tất phải thậm thụt. Bổn Bảo chủ ở đây hầu giá từ lâu rồi.
Hai người giật mình kinh hãi, biết hành tung đã bại lộ, cũng chẳng cần lo ngại nữa, lập tức phóng đi về phía tiểu lầu.
Trên đường, Dư Mộng Chân truyền âm nói :
- Sanh nhi, phải hết sức cẩn thận, tuyệt đối không được khinh xuất.
Hồ Thiết Sanh gật đầu, những đại hán trong ngôi đình cùng ngoảnh lại nhìn hai người, họ thảy đều xa lạ.
Hai người vượt qua ngôi đình, ngoảnh lại nhìn, Hồ Thiết Sanh bất giác bật lên một tiếng sửng sốt, thì ra lão nhân bị trói trong đình chính là Quan Tiêu Thiên Võ Tài Thần.
Lúc này Dư Mộng Chân cũng đã phát hiện, liền quay lại phía ngôi đình, định hỏi chuyện Quan Tiêu Thiên.
Bỗng nghe người trên lầu trầm giọng :
- Quan Tiêu Thiên được luyện tuyệt kỹ này là duyên phận của y, đó là do y cam tâm tình nguyện, hai vị khỏi phải nhọc tâm.
Hồ Thiết Sanh quát to :
- Dừng tay ngay.
Tiếng quát chàng phát ra trong cơn thịnh nộ, hàm chứa uy lực vô thượng, hai đại hán ấy lập tức ngừng tưới nước và ngưng quạt ngay.
Hồ Thiết Sanh chú mắt nhìn kỹ, đúng là Quan Tiêu Thiên, chẳng hiểu sao ông ấy lại lọt vào trong Phi Hồn bảo và đang luyện môn võ công gì?
Chỉ thấy ông hai mắt hé mở, mặt mày đỏ bừng, không hề có vẻ sợ lạnh, trân trối nhìn Hồ Thiết Sanh và Dư Mộng Chân, ra chiều không hề quen biết.
Hồ Thiết Sanh lớn tiếng nói :
- Quan tiền bối sao lại ra nông nổi này vậy?
Quan Tiêu Thiên trân trối nhìn Hồ Thiết Sanh một hồi, trầm giọng nói :
- Lão phu không biết ngươi, ngươi nói vớ vẩn gì vậy?
Hồ Thiết Sanh sững sờ :
- Quan tiền bối, vãn bối là Hồ Thiết Sanh đây! Chả lẽ chỉ trong mấy tháng không gặp mà tiền bối đã không còn nhận ra vãn bối nữa ư?
Quan Tiêu Thiên mắt rực hung quang, gằn giọng quát :
- Bắt lấy hắn.
Mười mấy đại hán hết sức vâng lời, liền cùng lao bổ vào Hồ Thiết Sanh, thảy đều như là dã thú, không xuất chưởng cũng chẳng né tránh, cứ hung mãnh xông thẳng tới.
Hồ Thiết Sanh không đành lòng sát hại những kẻ tay sai tầm thường này, chỉ với ba thành công lực tung ra chiêu Bích Lạc Hoàng Tuyền, chỉ nghe bùng một tiếng, mười mấy đại hán kẻ ngã sang tây người lăn sang đông, nhưng không ai thọ thương, lại hung hãn lao tới, vẫn không xuất thủ.
Hồ Thiết Sanh buông tiếng cười gằn, với tám thành công lực lại thi triển chiêu Bích Lạc Hoàng Tuyền, lại một tiếng vang rền rĩ, một số đại hán ngã lăn trên đất, vải vụn tung bay, nhưng vẫn không thọ thương.
Thế là chẳng những Hồ Thiết Sanh kinh ngạc, mà ngay cả Dư Mộng Chân cũng tột cùng sửng sốt bởi chiêu chưởng tám thành công lực của Hồ Thiết Sanh vừa rồi ngay cả bà đón tiếp e cũng phải thọ thương nhẹ huống hồ những đại hán này hoàn toàn không chống đỡ. Nếu không phải tà thuật bàng môn thì cũng là một môn công phu hộ thân kỳ dị.
Hồ Thiết Sanh cười khẩy nói :
- Kẻ này chẳng tin trên đời lại có người đánh không chết, hãy tiếp một chưởng nữa xem.
Đoạn lại với tám thành chân lực thi triển Huyền Huyền Nhất Thức, chỉ nghe tiếng bùng bùng và tiếng gào thét liên hồi, bọn đại hán bị đánh văng ra xa hơn ba trượng, đất tuyết dính đầy mình.
Nhưng họ vẫn không thọ thương, nhe răng toét niệng lồm cồm bò dậy, lại hung hãn lao vào Hồ Thiết Sanh.
Hồ Thiết Sanh bất giác biến sắc mặt, thầm nhủ :
“Huyền Huyền Nhất Thức ngay cả Vi Ngọc Cầm còn không tiếp nổi, bọn đại hán này chả lẽ mình đồng da sắt hay sao?”
Hồ Thiết Sanh lại hướng về phía Quan Tiêu Thiên, lớn tiếng nói :
- Quan tiền bối không nhận ra vãn bối, chẳng lẽ Bạch Diêu Hồng con gái của tiền bối cũng không cần luôn sao? Hiện lệnh ái đang ở gần đây thôi.
Quan Tiêu Thiên trầm giọng :
- Lão phu không có con gái, ngươi đừng nói vớ vẩn.
Dư Mộng Chân nói :
- Lý trí của ông ấy đã mất, ngươi đừng có phí lời nữa.
Bọn đại hán ấy lại lao đến, Hồ Thiết Sanh vừa định xuất thủ, Dư Mộng Chân đã nắm tay chàng tung mình lùi sau năm sáu bước, nói :
- Hãy giữa sức lại để đấu với người trên lầu, chúng ta lên đi.
Hai người tung mình lên, đứng trên lan can lầu, chỉ thấy trong lầu tối mù mịt, không nhìn thấy cảnh vật.
Dư Mộng Chân đưa tay xô cửa, nhanh nhẹn lướt vào, Hồ Thiết Sanh không dám khinh suất, vội theo sát bà.
Vừa vào bên trong, hai người liền cảm thấy hàn khí buốt xương, hệt như đang đứng trong hố tuyết. Chỉ thấy trong lầu một màu trắng xóa, trên vách sàn và mọi gia cụ đều phủ một lớp băng dày, một văn sĩ trung niên hai tay chắp sau lưng trừ trong bước ra.
Dư Mộng Chân bật lên một tiếng sửng sốt, lắp bắp không nói nên lời, và cả Hồ Thiết Sanh cũng sững người ra, trân trối nhìn văn sĩ trung niên.
Chỉ thấy văn sĩ trung niên ấy đôi mày kiếm dài đến tóc mai, mắt sáng như sao, chiếc áo dài lam trên mình không dính một hạt bụi, tướng mạo siêu phàm thoát tục, như hết sức lấy làm lạ trước cái nhìn trân trối của Dư Mộng Chân và Hồ Thiết Sanh, một thoáng ngẩn người rồi mới ngồi xuống chiếc ghế thái sư phủ băng dày.
Dư Mộng Chân ngạc nhiên nói :
- Lạc Dật đó phải không? Sao lại trở thành Bảo chủ Phi Hồn bảo thế này?
Văn sĩ trung niên ngẩn người, cười khẩy nói :
- Tôn giá nói vớ vẩn gì vậy? Ai là Lạc Dật? Lạc Dật là ai?
Hồ Thiết Sanh là một cô nhi, lúc lên bảy đã theo sư phụ học võ nghệ, hãy còn nhớ láng máng hình bóng của sư phụ, vừa rồi chàng đã thấy quen quen, giờ nghe Dư Mộng Chân đề cập, cánh cửa ký ức liền mở ra.
Không sai! Đây chính là sư phụ, nghe nói lúc chàng tám tuổi, sư phụ và sư mẫu đã ngộ nạn thất tung, tuy trong ký ức sư phụ là một người trẻ tuổi, nhưng tính theo thời gian, nếu sư phụ còn sống thì cũng đã tuổi trung niên rồi.
Hồ Thiết Sanh xúc động đến máu nóng sục sôi, lớn tiếng nói :
- Sư phụ không còn nhận ra Sanh nhi nữa sao?
Văn sĩ trung niên đưa mắt nhìn Hồ Thiết Sanh, lắc đầu nói :
- Rõ đều là kẻ điên khùng, ai là sư phụ của ngươi?
Hồ Thiết Sanh mắt ngập lệ tiến tới nói :
- Sư phụ hãy nhìn kỹ xem, đồ nhi là Hồ Thiết Sanh đây.
Văn sĩ trung niên mặt hiện sát cơ, Dư Mộng Chân vội lướt tới, nắm tay Hồ Thiết Sanh kéo lui ra, truyền âm nói :
- Sanh nhi, lão thân tuy khẳng định người này chính là sư phụ Lạc Dật đã mất tích muời mấy năm qua của ngươi, nhưng trong bảo này mọi sự đều rất đáng nghi, qua cử chỉ và thái độ của y, dường như quả thật là không nhận ra chúng ta. Thử nghĩ, xưa khi lão thân đã từng đích thân truyền thụ võ công cho y và Bạch Băng, dù y không nhận ra ngươi thì cũng phải nhận ra lão thân, xem ra chuyện này hẳn là có vấn đề.
Văn sĩ trung niên mặt trắng bệch, dưới sự phản chiếu của băng tuyết trong nhà, không có chút máu nào, lạnh lùng nhìn Dư Mộng Chân nói :
- Tôn giá là ai?
- Bổn nhân là Dư Mộng Chân, ngoại hiệu Ma Thủ Hồng Nhan, Lạc Dật, hãy nghĩ kỹ xem, khi xưa bổn nhân từng truyền võ công cho tôn giá.
Văn sĩ trung niên lắc đầu :
- Bổn Bảo chủ lần đầu tiên mới nghe danh tánh ấy. Lạ thật, tôn giá đã vào được Phi Hồn bảo, hẳn nhiên là thân thủ bất phàm, sao bổn Bảo chủ chưa từng nghe nói đến danh tánh thế nhỉ?
Dư Mộng Chân lắc mạnh đầu :
- Bảo chủ có biết Bạch Băng không?
Văn sĩ trung niên ngẫm nghĩ một hồi, lẩm bẩm :
- Bạch Băng... Bạch Băng...
Đoạn vẫn lắc đầu nói :
- Dường như có nghe đến danh tánh này, chẳng hay là nam hay nữ?
Dư Mộng Chân nhấn mạnh giọng :
- Bạch Băng là con gái của Ma Già Bạch Long Xuyên, và cũng là vợ của tôn giá, khi xưa bổn nhân đã từng truyền thụ võ công cho hai người, về sau vì trưởng bối của hai người bất hòa nên đã bị kẻ gian lợi dụng hãm hại. Vì thế hai người Tề Lỗ song tàn đã thọ trọng thương, nhưng vẫn cố sức đưa thi thể hai người về đến nhà, việc này thật là khó hiểu...
Văn sĩ trung niên chậm rãi đứng lên, cười lạnh lùng nói :
- Toàn là chuyện vớ vẩn, bổn Bảo chủ chưa từng nghe bao giờ.
Dư Mộng Chân và Hồ Thiết Sanh ngơ ngác nhìn nhau, nhưng Dư Mộng Chân tin chắc mình chưa già đến mức mắt mờ, đã nhìn lầm người, mỉm cười nói :
- Vậy Bảo chủ có thể cho biết đại danh chăng?
Văn sĩ trung niên đanh mặt :
- Chỉ cần biết bổn nhân là Bảo chủ Phi Hồn bảo là đủ, không cần hỏi nhiều.
Dư Mộng Chân lớn tiếng :
- Tôn giá chính là Lạc Dật, ngoại hiệu Vô Sao Kiếm, bổn nhân tuyệt đối không nhìn lầm.
Văn sĩ trung niên nhướng mày, vỗ tay liền ba cái, sau đó lại ngồi xuống ghế.
Lập tức gió lạnh nổi lên, sức lạnh càng gia tăng, chỉ thấy trên người văn sĩ trung niên nhanh chóng phủ đầy một lớp sương dày, và hai bàn tay cũng phủ một lớp băng mỏng.
Đây là môn võ công gì thế này? Dư Mộng Chân và Hồ Thiết Sanh kinh hãi, vội vận tụ công lực giới bị.
- Gia gia, Quyên nhi bất hiếu, mong lão nhân gia tha thứ tội.
Bạch Long Xuyên âu yếm vuốt tóc nàng, thở dài nói :
- Quyên nhi, cá tính tranh cường hiếu thắng của ngươi tuy là do gia gia quá nuông chiều mà nên, nhưng gia gia biết ngươi mồ côi từ thuở bé, không cha không mẹ nên sinh tính ương ngạnh và tự ti mặc cảm, đó không thể hoàn toàn trách ngươi được. Thôi, đứng lên đi! Gia gia với Lạc thúc công đã quyết định, đêm nay chính thức thành hôn.
Bạch Ngọc Quyên lắc đầu :
- Không! Gia gia, Quyên nhi không muốn...
Bạch Long Xuyên trầm giọng :
- Quyên nhi, ngươi đã không còn bé nữa, chả lẽ còn chưa hiểu chuyện sao? Ngươi đã có con, sao thể không thành hôn? Hiện ngươi là thân phận gì, chả lẽ muốn theo gương cha mẹ ngươi hay sao?
Bạch Ngọc Quyên theo Bạch Long Xuyên khôn lớn, chưa bao giờ nghe ông nói câu này, ngẩng mặt lên hỏi :
- Gia gia nói vậy nghĩa là sao? Chả lẽ gia phụ mẫu chưa thành hôn mà đã sinh ra Quyên nhi rồi ư?
- Không sai, chính vì vậy gia gia với Lạc thúc công đều hết sức tức giận, hai người lúc ấy vốn đã có thành kiến với nhau, lại xảy ra chuyện như vậy, dĩ nhiên không thể chấp nhận được. Do đó đã bị kẻ gian hãi hại, gây nên mối thù hận hai nhà, và cha mẹ ngươi cũng chết một cách oan ức...
Bạch Long Xuyên nói đến đó, ông với Lạc Kỳ đều đã mắt ngập lệ. Tề Lỗ song tàn vốn là bộc tùng trung thành của Vô Sao Kiếm Lạc Dật và Ma Già Tiên Tử Bạch Băng, lúc này cũng nước mắt chảy dài.
Thiên Đài Kỳ Si lớn tiếng nói :
- Hai vị sao thế này? Khóc đến phát nghiện rồi hả? Đêm nay là ngày mừng lớn của bọn trẻ, chúng ta phải vui lên mới đúng chứ?
Hắc Đao Khách phụ họa :
- Đúng rồi, mặc dù họ là phụng mệnh kết hôn, nhưng dẫu sao cũng là lần đầu tiên trong đời...
Dư Mộng Chân bĩu môi, cười ngắt lời :
- Hai vị không bao giờ nói được một câu nào nghiêm túc, dẫu sao cũng là bậc tiền bối, như vậy bọn trẻ kính trọng hai vị sao được?
Hắc Đao Khách cười hóm hỉnh :
- Dư cô nương uổng phí tuổi xuân, phòng không đơn chiếc cả đời người, dĩ nhiên cũng chưa từng nếm trải mùi vị ấy, thật không ngờ ba tiểu tử này sinh sau đẻ muộn mà lại về đích trước...
Dư Mộng Chân đỏ mặt, giơ tay định đánh Hắc Đao Khách, Thiên Đài Kỳ Si lớn tiếng nói :
- Trần huynh, câu nói ấy của Trần huynh đã khích dậy linh cảm của Lữ mỗ, có lẽ đêm nay phải cử hành một lúc hai hôn lễ, đó gọi là song hỷ lâm môn.
Hắc Đao Khách reo lên :
- Tuyệt! Tuyệt quá! Bạch huynh, Lạc huynh, hai vị hãy rút thăn quyết định, ai rút được thăm đỏ kể như nguyệt lão buộc dây tơ hồng, sẽ kết duyên với Dư cô nương...
Lạc Kỳ và Bạch Long Xuyên tuy tuổi đã lục tuần nhưng cũng không khỏi đỏ mặt, và Dư Mộng Chân lại càng e thẹn hơn. Trong nhà trần ngập tiếng cười, ngay cả Bạch Ngọc Quyên cũng không nén nổi phải bật cười.
Thế là mây đã tan, trời lại sáng, động phòng sớm đã được chuẩn bị, nến hoa cũng đã được thắp lên. Dư Mộng Chân trang điểm cho hai nàng, lòng thầm cảm khái vô cùng, hồng nhan đã sắp phai tàn, trước tình cảnh này lòng càng thêm xót xa. Nhưng Lạc Kỳ và Bạch Long Xuyên lòng hiểu thấu rõ, hai người cũng hết sức ray rứt. Thế nhưng, chuyện này không còn vãn hồi được nữa, kiếp này họ chẳng thể đền bù tấm chân tình của Dư Mộng Chân được nữa.
Vái lạy trời đất xong, đưa vào động phòng, Bạch Ngọc Quyên sinh con đầy tháng, dĩ nhiên không thể ái ân, thế là Bạch Diêu Hồng đã được trọn hưởng.
Hôm sau, Lạc Kỳ và Bạch Long Xuyên đưa Hồ Thiết Sanh vào phòng bí thất, bảo chàng kể từ nay phải khổ luyện võ công, tạm không gần gũi hai nàng nữa.
Sau một tháng miệt mài nghiên cứu và được hai vị lão nhân trợ giúp, Hồ Thiết Sanh đã tham ngộ được Huyền Huyền Nhị Thức, đương nhiên cũng huyền ảo hơn Huyền Huyền Nhất Thức.
Hồ Thiết Sanh dùng Ma đao thi triển Huyền Huyền Nhất Thức và Huyền Huyền Nhị Thức, uy lực thật khủng khiếp, Lạc Kỳ và Bạch Long Xuyên tin chắc lúc này Thiết Ông Xung không còn đáng sợ nữa. Trong khi chiêu thứ ba Huyền Huyền Thủ chưa nghiên cứu ra, trong võ lâm bỗng nổi lên hai tuyệt phái, một là Phi Hồn bảo trong Mang Sơn, hai là Hận Thế giáo trong Ngũ Chỉ sơn trên đảo Hải Nam. Thật ra thì Lạc Kỳ và Bạch Long Xuyên hồi một năm trước đã phát hiện có một số nhân vật thần bí xuất hiện trên giang hồ, song vì hành tung của họ hết sức bí ẩn nên chưa dò la được rõ ràng, và đồng thời hai ông cũng chẳng bận tâm bởi một Thiên Nhất bang cũng đã khó đối phó rồi.
Giờ đây lại nổi lên hai tuyệt phái và đều là hung tàn bạo ngược, bất luận hắc đạo hay bạch đạo, chưa đầy một năm đã sát hại hằng mấy trăm người, khiến toàn thể võ lâm điêu đứng kinh hoàng. Lúc này Lạc Kỳ và Bạch Long Xuyên triệu tập mọi người bàn tính kế sách, và quyết định từ nay có ra ngoài là phải phối hợp lẫn nhau, đồng thời còn quy định ám hiệu liên lạc, một đóa hoa mai là liên lạc hành tung, hai đóa hoa mai là cần trợ giúp, ba đóa hoa mai là cần cứu khẩn cấp.
Quần hùng được chia là bốn nhóm, nhóm thứ nhất là Lạc Kỳ xuất lĩnh Tề Lỗ song tàn, nhóm thứ nhì là Bạch Long Xuyên xuất lĩnh Trung Nguyên ngũ kỵ sĩ, nhóm thứ ba là Thiên Đài Kỳ Si với Hắc Đao Khách và Tiểu Lục Tử, nhóm thứ tư là Dư Mộng Chân với Văn Thân Dã Tẩu Tư Mã Ngưu, Động Đình Thần Quân Tề Cảnh Úy, Hồ Thiết Sanh, Bạch Ngọc Quyên, Bạch Diêu Hồng và nhũ mẫu.
Nhóm thứ tư thực lực mạnh nhất, đó là vì phải bảo vệ cho hai nàng và bé Tiểu Sanh, nhưng lúc này võ công của Hồ Thiết Sanh cao hơn hết, có thể tiếp ứng ba nhóm khác bất kỳ lúc nào.
Mục tiêu dọ thám của họ đương nhiên là đến Mang Sơn trước, từ lăng Tấn Tuyên Đế đến Mang Sơn chỉ chừng bốn năm mươi dặm đường, lúc chiều tối đã tiến vào Mang Sơn. Văn Thân Dã Tẩu khi xưa cũng đã từng thầm yêu trộm nhớ Dư Mộng Chân, giờ đây lão đã tóc bạc phơ, trong khi Dư Mộng Chân có cách trú nhan, sắc đẹp chẳng kém gì khi xưa, đi chung với bà cảm thấy rất là gò bó.
Thế nên, lão bàn tính với Động Đình Thần Quân, hai người quyết định đi trước dò đường, Tề Cảnh Úy nói lại ý kiến ấy với Dư Mộng Chân, Dư Mộng Chân liền hiểu ý Tư Mã Ngưu, nhưng bà chịu trách nhiệm lãnh đạo nhóm, không yên tâm nói :
- Hai vị không nên vậy, Lạc huynh và Bạch huynh đã phân phối như vậy hẳn nhiên là có nguyên nhân, nếu phân tán lực lượng sẽ suy giảm...
Tư Mã Ngưu tiếp lời :
- Dư cô nương hãy yên tâm, cho dù gặp phải đại địch, Tư Mã Ngưu bỏ chạy hẳn không thành vấn đề. Hơn nữa, lời đồn đại chưa chắc đúng sự thật.
Dư Mộng Chân nghiêm mặt :
- Thật ra đó không phải là lời đồn đại, mà là hai vị Lạc huynh và Bạch huynh đã chính mắt trông thấy, những người thần bí ấy khinh công rất cao và thủ đoạn cực kỳ tàn ác.
Tư Mã Ngưu cười :
- Thủ đoạn của Tư Mã Ngưu này cũng chẳng hiền từ, để rồi xem ai tàn ác hơn ai. Thôi đi, hai ta tiên phong.
Đoạn liền cùng Tề Cảnh Úy bỏ đi trước, Dư Mộng Chân lắc đầu nói :
- Lạc Kỳ và Bạch Long Xuyên lại cứ bảo lão thân phụ trách nhóm này, hạng nữ lưu như lão thân đôi lúc thật khó mà nói chuyện, họ ít người thế cô, vạn nhất gặp phải cao thủ cũng khó mà bình yên thoát thân.
Bạch Ngọc Quyên bỗng hỏi :
- Dư tiền bối với gia tổ và Lạc tiền bối khi xưa đều là sinh tử chi giao, nhưng... nhưng...
Bạch Ngọc Quyên ngại không dám nói tiếp, Dư Mộng Chân mỉm cười :
- Tiểu nha đầu ngươi có gì cứ hỏi, đằng nào đó cũng là một điều bí mật đã công khai rồi.
- Theo như vãn bối biết, giữa nam nữ không có tình bạn thật sự, nếu có thì đó là tình yêu, chẳng hay tiền bối có tình cảm với vị nào nhiều hơn?
Hồ Thiết Sanh cho là một vãn bối không nên đưa câu hỏi như vậy, vội nháy mắt với Bạch Ngọc Quyên.
Nhưng Dư Mộng Chân không hề có ý trách nàng, thở dài nói :
- Tục ngữ có câu, có trí không kể tuổi trẻ, không trí uổng sống trăm năm! Nếu ngươi hỏi câu này hồi mấy mươi năm trước, lão thân chắc hẳn không tin, nhưng giờ thì lão thân đã tin, cũng kể như ngươi đã dạy cho lão thân một bài học... Trước kia lão thân cứ nghĩ là giữa lão thân với họ chỉ đơn thuần là tình bạn, và giữa nam nữ mà giữ được tình bạn như vậy trọn đời thì thật là một niềm vui lớn, nhưng thật ra thì ý nghĩ ấy đã sai lầm.
Bạch Diêu Hồng xen lời :
- Thật ra tiền bối cũng không cần lo ngại, xưa nay người già kết hôn là chuyện rất bình thường, chẳng hay tiền bối thật sự yêu vị nào vậy?
- Nghiêm khắc mà nói, người lão thân yêu là Lạc Kỳ, nhưng lúc bấy giờ lão thân lại không thừa nhận, luôn làm những chuyện vớ vẩn trái với ý muốn của mình, luôn tự lừa dối mình, tỏ ra tình cảm dành cho hai người như nhau, vì vậy hai người đều không tiện bày tỏ tâm ý riêng với lão thân. Thời gian thấm thoát, xuân xanh qua đi, lòng hai người hẳn là rất ray rứt, nhưng lỗi là do lão thân, không thể trách họ được.
Hồ Thiết Sanh nghe giọng nói Dư Mộng Chân đầy xót xa luyến tiếc, vội lái sang chuyện khác nói :
- Dư tiền bối có từng gặp gia sư Vô Sao Kiếm Lạc Dật và sư mẫu Ma Già Tiên Tử Bạch Băng bao giờ chưa vậy?
Dư Mộng Chân gật đầu :
- Đương nhiên là có, và lão thân còn truyền dạy họ một số võ công nữa! Lạc Dật và Bạch Băng thiên tư rất cao, có lẽ không kém hơn ngươi, nhưng có điều Lạc Dật tính rất hiếu thắng, nên mới giành được ngoại hiệu Vô Sao Kiếm.
- Dường như có người nói, rất có thể gia sư và gia mẫu chưa chết, theo tiền bối thì sao?
Dư Mộng Chân trầm ngâm :
- Đúng lý ra thì không thể có vậy, bởi chuyện đã mấy mươi năm, nếu như họ còn sống thì đã sớm hiện thân rồi. Nhưng cũng rất khó khẳng định, đôi khi cũng có những chuyện không thể nào ngờ được.
Bạch Ngọc Quyên lại hỏi :
- Võ công của gia phụ Lạc Dật so với Động Đình Thần Quân thế nào?
- Người luyện võ tư chất là quan trọng hơn hết, tục ngữ có câu “sư phụ vào cửa, tu hành mỗi người”, quả là không sai. Có thể người ngoài cho Lạc Dật là nghĩa tử của Lạc Kỳ, nên không khỏi thiên vị truyền cho tuyệt học nhiều hơn, thật ra nghĩ như vậy là sai. Theo như lão thân biết, Lạc Kỳ không hề có lòng thiên vị, nhưng thành tựu của Tề Cảnh Úy so với Lạc Dật thì kém rất xa.
Lúc này họ đã đi đến trên một ngọn núi cao, nhũ mẫu đèo Tiểu Sanh trên lưng, Bạch Diêu Hồng và Bạch Ngọc Quyên đi kềm hai bên, Hồ Thiết Sanh thỉnh thoảng lại đến hôn con trẻ một cái, tình cha con và vợ chồng hiện rõ trên mặt họ.
Dư Mộng Chân bỗng trở tay nói :
- Mọi người hãy nhìn xem, có lẽ đó chính là Phi Hồn bảo.
Ba người chú mắt nhìn, chỉ thấy trong thâm cốc có một tòa lâu đài đồ sộ nguy nga, dưới màn đêm nhập nhòa và có thể thoáng thấy ánh đèn và tiếng trống từng hồi văng vẳng vọng đến. Trong chốn hoang sơn đêm tối, tiếng trống nghe thật kinh tâm động phách, từng hồi từng hồi, gây ra cảm giác ghê rợn tột cùng.
Dư Mộng Chân nghiêm nghị nói :
- Chỉ mới mấy tháng không đến Mang Sơn, chẳng ngờ nơi đây đã xây cất một tòa bảo lớn thế này mà không ai hay biết, xem ra Phi Hồn bảo này qủa là không nên khinh thường, chẳng rõ Tư Mã Ngưu và Tề Cảnh Úy có vào trong bảo hay không?
Năm người đi xuống núi, phóng đi vào thâm cốc, Dư Mộng Chân nói :
- Hồng nhi và Quyên nhi hãy tìm một chỗ kín đáo ở gần đây để tiện bảo vệ cho nhũ mẫu và Tiểu Sanh, lão thân với Hồ Thiết Sanh vào bảo thám thính được rồi.
Bạch Diêu Hồng không đồng ý :
- Không, chúng vãn bối đi nữa.
Dư Mộng Chân dịu giọng :
- Hồng nhi, các ngươi phải vâng lời, nên biết nếu đây là các môn phái thông thường thì Lạc Kỳ và Bạch Long Xuyên không bao giờ xem trọng như vậy, các ngươi đi theo chẳng những không giúp gì được mà còn vướng bận thêm, làm cho tinh thần lão thân và Hồ Thiết Sanh bị phân tán, nếu gặp cao thủ, nhũ mẫu với Tiểu Sanh đều hết sức nguy hiểm.
Hai nàng không dám phản đối, tìm một sơn động kín đáo ẩn thân, Dư Mộng Chân và Hồ Thiết Sanh lập tức phóng đi về phía Phi Hồn bảo.
Gió núi lồng lộng, hàn khí buốt xương, tuyết to cỡ lông ngỗng lại lả tả rơi xuống. Phi Hồn bảo đã phủ lấp một lớp trắng xóa, tiếng trống trong bảo kinh tâm động phách, tường bảo cao đến năm trượng, mỗi cách khoảng năm trượng đều có một ngôi lầu, hiển nhiên bên trong đều có cao thủ đắc lực canh gác.
Hai người phi thân lên trên một ngọn cây tùng cao to, đưa mắt nhìn vào trong bảo, nhưng vì tường bảo cao đến năm trượng, đứng trên cây tùng vẫn không nhìn thấy được cảnh vật bên trong.
Hồ Thiết Sanh nói :
- Dư tiền bối, chúng ta hãy vào trong.
Vừa dứt lời, bỗng gần đó vang lên một tiếng nói sắc lạnh :
- Đã đến rồi đương nhiên là phải vào trong bảo, nếu không thì là đầu hổ đuôi rắn còn gì.
Hai người cùng quét mắt nhìn quanh, chỉ thấy một bóng người từ trên một cây tùng to vọt lên, lướt đi vào bảo, loáng cái đã mất dạng, thân pháp hết sức nhanh nhẹn.
Dư Mộng Chân nghiêm giọng :
- Hành tung của chúng ta đã bị phát giác, thôi thì cứ vào, nhưng phải hết sức cẩn thận.
Hai người phi thân vượt qua tường rào, chân vừa chạm đất, bất giác cùng bật lên một tiếng kinh ngạc. Thì ra đã có tám quái nhân đứng quanh, thảy đều mặc y phục trắng và đội nón trắng của người chết, mặt vàng như sáp, mắt chỉ có tròng trắng chứ không có tròng đen.
Hồ Thiết Sanh tuy võ công cao cường, nhưng chưa từng nhìn thấy người khủng khiếp thế này, bởi tám quái nhân đứng yên trên đất hệt như tám khúc gỗ, không chút động đậy, kể cả đôi mắt trắng đã cũng đứng yên một chỗ.
Thoạt nhìn họ dường như không nhìn hai người, nhưng thật ra họ đang nhìn hai người chòng chọc, Dư Mộng Chân tuy cảm thấy ớn lạnh, nhưng bà là người từng trải qua nhiều sóng to gió cả, trong đầu nghĩ nhanh, bỗng trầm giọng nói :
- Các vị có phải là Âm Ty Bát Cổ (mù) huynh đệ họ Quảng đã thất tung hồi mấy mươi năm trước?
Một trong số họ mặt co giật một hồi, mới cất giọng the thé nói :
- Đã biết đại danh của bổn huynh đệ, còn chưa mau cút khỏi đây ngay.
Hồ Thiết Sanh cười khẩy :
- Các vị dù là tám người sắt, kẻ này cũng đánh cho nát vụn, xem chưởng!
Huyền Huyền Nhất Thức tung ra, nhưng chỉ vận dụng bảy thành chân lực, chỉ thấy trong vòng mấy mươi trượng mưa rơi lất phất, tuyết trên mặt đất tan chảy thành nước, tuyết trên không cũng hóa thành mưa. Chỉ nghe mấy tiếng rú ghê rợn, Âm Ty Bát Cổ cùng bị đánh văng bay ra xa hơn trượng, lủi vào một khu rừng trúc mất dạng.
Dư Mộng Chân cảm khái nói :
- Võ học tuyệt thế quả nhiên khác thường, trên cõi đời này e không còn mấy ai thân thủ cao hơn ngươi nữa.
- Đó cũng là nhờ ơn tài bồi của các vị tiền bối, nếu chỉ một mình vãn bối, hẳn cũng không thể tham ngộ được tuyệt học huyền ảo này.
- Ngươi cũng không nên quá khiêm tốn, nếu luận tư chất, cũng chỉ sư phụ ngươi Lạc Dật mới có thể sánh tương đương ngươi thôi.
Lúc này, tiếng trống kinh tâm động phách kia đột nhiên trở nên gấp rút, rồi thì ánh đèn Phi Hồn bảo vụt tắt, bốn bề tối mịt.
Dư Mộng Chân trầm giọng :
- Chúng ta phải tiếp cận khu nhà chính giữa ngay trung tâm, đứng ở chỗ trống thế này rất là bất lợi.
Hai người liền tức phóng đi về phía dãy nhà chính giữa, dãy nhà này gồm mười mấy gian, trông bề ngoài rất là trang nhã, hệt như phủ đệ của quan lại.
Trong tòa nhà im lìm như một ngôi cổ mộ, và tiếng trống nơi xa cũng đột nhiên ngưng lặng, cả tòa nhà Phi Hồn bảo tĩnh lặng tới mức một chiếc lá rơi cũng có thể nghe rõ.
Đây chính là sự yên lặng trước khi giông tố kéo đến, dù ai can đảm đến mấy cũng không khỏi ghê sợ, Dư Mộng Chân khoát tay, nhè nhẹ đẩy mở cánh cửa gỗ khép hờ, rồi lướt nhanh vào bên trong.
Hồ Thiết Sanh cũng theo sau vào, trong nhà tối om, nhưng nhãn lực hai người rất tinh, có thể loáng thoáng thấy trong nhà được bài thiết rất sang trọng và trang nhã.
Đây là một gian to, hiển nhiên hai bên còn có rất nhiều gian ngầm, có cửa thông nhau, nhưng những cánh cửa ấy vẫn khép hờ.
Bỗng, tiếng guốc lọc cọc từ trong gian phòng bên trái vọng ra, dường như có một nữ nhân yếu đuối đang đi lại trong ấy.
Hồ Thiết Sanh bất giác rợn người, Dư Mộng Chân liền tức tung mình về phía gian phòng ấy, cách không nhẹ nhàng vung tay đẩy cửa, hai cánh cửa lập tức mở hé ra.
Tiếng lọc cọc bên trong vụt ngưng bặt, hai người lập tức vận công vào song chưởng, lướt nhanh và trong.
Gian phòng này bày trí khác hẳn gian phòng bên ngoài, trông giống như khuê phòng của nữ nhân, trong phòng ngát hương thơm, nhưng không có một bóng người.
Dư Mộng Chân bất giác rợn người, hệt như đang dấn thân vào trong qủy vực.
Tiếng guốc lọc cọc lại từ gian trong vọng ra, ngoài tiếng động ấy, bốn bề hoàn toàn im lặng, chỉ có bóng cây bên ngoài in trên cửa sổ, không ngừng lay động như ma qủy nhảy múa.
Hồ Thiết Sanh không tin trên đời có ma quỷ, lẳng lặng xô cửa đi vào bên trong, gian phòng này cũng không có một bóng người, chỉ ngửi thấy hương thơm thoang thoảng như vừa có nữ nhân ở đây.
Gian nhà trong lại vang lên lọc cọc, Hồ Thiết Sanh chẳng tin tà ma, liền chớp nhoáng xuất chưởng phi thân, gian trong vẫn như trước, dư hương thoang thoảng nhưng không có bóng người.
Dư Mộng Chân bực tức nói :
- Thôi, chúng ta đừng chơi trò cút bắt với họ, họ quen thuộc địa hình nên luôn giành lấy tiên cơ, dĩ nhiên chúng ta khó thể bắt gặp. Đi, chúng ta đi nơi khác xem thử.
Bỗng nghe tiếng tỳ bà du dương từ gian trong vọng ra, phen này Dư Mộng Chân cũng động lòng hiếu kỳ, tung mình nhanh như chớp vào gian trong.
Gian này không giống khuê phòng nữ nhân, mà giống như một thư phòng, trên bàn có văn phòng tứ bảo, vách treo các loại đàn tranh và đàn tỳ bà, dây đàn vẫn còn rung động như vừa có người khẩy.
Dư Mộng Chân kéo tay Hồ Thiết Sanh nói :
- Mục đích của chúng ta đến đây là thám thính, không cần phải nhọc tâm đến những chuyện vớ vẩn, đi thôi.
Nào ngờ bà vừa dứt lời, bỗng nghe tang một tiếng, chiếc tỳ bà trên vách như vừa có người khảy một cái, trong đêm khuya tĩnh lặng nghe như lòng bị khuấy động vậy.
Ma quỷ! Hồ Thiết Sanh chẳng tin nhưng trong phòng không người mà chiếc đàn tỳ bà trên vách lại có thể tự phát ra âm thanh, chẳng phải ma quỷ là gì?
Dư Mộng Chân tuy giàu kinh nghiệm đời, nhưng dẫu sao cũng là nữ lưu, không khỏi thoáng biến sắc qua mặt, trong một thoáng sững sờ, chiếc đàn trên vách đã trỗi lên, đồng thời còn có tiếng hát thánh thót hòa theo.
Tiếng hát du dương hàm chứa vô cùng tận những thê lương, như một thiếu phụ phòng không chiếc bóng, cô đơn trong đêm trường, cất lên tiếng lòng ai oán.
Hồ Thiết Sanh vận hết nhãn lực nhìn, những sợi dây của các nhạc khí trên vách đều như khe khẽ rung động, nhưng không thấy bóng người.
Bỗng, tiếng nhạc vụt ngưng bặt, dư âm phảng phất hồi lâu chưa dứt.
Dư Mộng Chân nói :
- Hãy khoan, để lão thân xem thử rồi hẵng tính, không chừng có thể phát hiện bí mật ngay cũng nên.
Hồ Thiết Sanh bán tín bán nghi, chỉ thấy Dư Mộng Chân đi đến bên vách, dùng móng tay nhẹ chọc vào chiếc đàn tỳ bà to, chiếc đàn ấy xê dịch sang bên nửa thước, trên vách hiện ra một lỗ nhỏ cỡ miệng ly, thì ra trong vách trống rỗng.
Hồ Thiết Sanh hết sức bội phục, xem ra dù võ công cao đến mấy, nếu không có kinh nghiệm thì cũng vẫn luôn bị vấp ngã.
Bởi vách tường rỗng, chuyện quái quỷ này đã bị vạch trần, hiển nhiên tiếng đàn không phải phát ra từ nhạc khí trên vách mà là từ phòng bên kia vọng sang. Còn về việc dây đàn trên vách rung động đó là do sức của tiếng đàn gây nên, chẳng có chuyện gì huyền bí cả.
Hai người nhìn nhau cười, đi ra khỏi phòng, phóng đi về phía một bức tường thấp, vượt qua bên kia, kinh ngạc đến suýt bật ra tiếng, thì ra đây là một hoa viên nhỏ, giữa có một tiểu lầu rất tinh xảo, trong lầu không hề có ánh đèn.
Trước tiểu lầu có một ngôi đình bát giác rộng lớn, diện tích không dưới tám trượng, trong đình có mười mấy đại hán đứng vòng quanh, trong số một người tay cầm thùng nước to, và một người tay cầm một chiếc quạt to.
Đại hán xách thùng đang xối nước lên người một lão nhân mình trần, thì ra trên người lão nhân ấy đã đóng một lớp băng mỏng.
Lão nhân ấy bị trói vào một trụ đá, quay lưng về phía này nên Hồ Thiết Sanh và Dư Mộng Chân không nhìn thấy rõ mặt, chỉ thấy đại hán cầm quạt đang ra sức quạt mạnh vào người lão nhân ấy.
Đại hán ấy như là cao thủ võ lâm, sức quạt rất mạnh, phát ra tiếng vù vù, đồng thời đại hán kia không ngừng xối nước lên người lão nhân.
Nước vừa xối lên, liền tức đóng thành băng, nhưng Hồ Thiết Sanh tin chắc là lão nhân ấy chưa chết, bởi vì trong miệng ông hãy còn hơi trắng nhàn nhạt bốc lên.
Dư Mộng Chân nắm tay Hồ Thiết Sanh, lách vào sau mấy cây mai già, đưa mắt nhìn, chỉ thấy một đại hán tay cầm búa nhỏ nện lên người lão nhân, băng vụn rơi xuống ào ào.
Điều lạ lùng là trên người lão nhân đóng băng, nhưng da thịt vẫn hồng hào và bốc hơi ngùn ngụt, và một đại hán tiếp tục xối nước, một đại hán tiếp tục ra sức quạt.
Cứ thế, trên người lão nhân đóng ba lần băng và cũng nện vỡ rơi ba lần, trong đêm tuyết rơi lạnh buốt thế này, đừng nói một lão nhân, dù là thanh niên trai tráng cũng đã chết cóng từ lâu.
Nhưng lão nhân vẫn chưa chết, và cũng không hề phát ra một tiếng rên nào.
Hồ Thiết Sanh đưa mắt nhìn Dư Mộng Chân, ra vẻ không hiểu.
Dư Mộng Chân truyền âm nói :
- Có lẽ họ đang luyện tà công gì đó, còn không thì là tra tấn lão nhân ấy, nhưng giả thiết thứ nhì không vững, bởi không có ai lên tiếng tra khảo.
Thốt nhiên, một tiếng nói lạnh tanh từ trong tiểu lầu vọng ra :
- Các vị hà tất phải thậm thụt. Bổn Bảo chủ ở đây hầu giá từ lâu rồi.
Hai người giật mình kinh hãi, biết hành tung đã bại lộ, cũng chẳng cần lo ngại nữa, lập tức phóng đi về phía tiểu lầu.
Trên đường, Dư Mộng Chân truyền âm nói :
- Sanh nhi, phải hết sức cẩn thận, tuyệt đối không được khinh xuất.
Hồ Thiết Sanh gật đầu, những đại hán trong ngôi đình cùng ngoảnh lại nhìn hai người, họ thảy đều xa lạ.
Hai người vượt qua ngôi đình, ngoảnh lại nhìn, Hồ Thiết Sanh bất giác bật lên một tiếng sửng sốt, thì ra lão nhân bị trói trong đình chính là Quan Tiêu Thiên Võ Tài Thần.
Lúc này Dư Mộng Chân cũng đã phát hiện, liền quay lại phía ngôi đình, định hỏi chuyện Quan Tiêu Thiên.
Bỗng nghe người trên lầu trầm giọng :
- Quan Tiêu Thiên được luyện tuyệt kỹ này là duyên phận của y, đó là do y cam tâm tình nguyện, hai vị khỏi phải nhọc tâm.
Hồ Thiết Sanh quát to :
- Dừng tay ngay.
Tiếng quát chàng phát ra trong cơn thịnh nộ, hàm chứa uy lực vô thượng, hai đại hán ấy lập tức ngừng tưới nước và ngưng quạt ngay.
Hồ Thiết Sanh chú mắt nhìn kỹ, đúng là Quan Tiêu Thiên, chẳng hiểu sao ông ấy lại lọt vào trong Phi Hồn bảo và đang luyện môn võ công gì?
Chỉ thấy ông hai mắt hé mở, mặt mày đỏ bừng, không hề có vẻ sợ lạnh, trân trối nhìn Hồ Thiết Sanh và Dư Mộng Chân, ra chiều không hề quen biết.
Hồ Thiết Sanh lớn tiếng nói :
- Quan tiền bối sao lại ra nông nổi này vậy?
Quan Tiêu Thiên trân trối nhìn Hồ Thiết Sanh một hồi, trầm giọng nói :
- Lão phu không biết ngươi, ngươi nói vớ vẩn gì vậy?
Hồ Thiết Sanh sững sờ :
- Quan tiền bối, vãn bối là Hồ Thiết Sanh đây! Chả lẽ chỉ trong mấy tháng không gặp mà tiền bối đã không còn nhận ra vãn bối nữa ư?
Quan Tiêu Thiên mắt rực hung quang, gằn giọng quát :
- Bắt lấy hắn.
Mười mấy đại hán hết sức vâng lời, liền cùng lao bổ vào Hồ Thiết Sanh, thảy đều như là dã thú, không xuất chưởng cũng chẳng né tránh, cứ hung mãnh xông thẳng tới.
Hồ Thiết Sanh không đành lòng sát hại những kẻ tay sai tầm thường này, chỉ với ba thành công lực tung ra chiêu Bích Lạc Hoàng Tuyền, chỉ nghe bùng một tiếng, mười mấy đại hán kẻ ngã sang tây người lăn sang đông, nhưng không ai thọ thương, lại hung hãn lao tới, vẫn không xuất thủ.
Hồ Thiết Sanh buông tiếng cười gằn, với tám thành công lực lại thi triển chiêu Bích Lạc Hoàng Tuyền, lại một tiếng vang rền rĩ, một số đại hán ngã lăn trên đất, vải vụn tung bay, nhưng vẫn không thọ thương.
Thế là chẳng những Hồ Thiết Sanh kinh ngạc, mà ngay cả Dư Mộng Chân cũng tột cùng sửng sốt bởi chiêu chưởng tám thành công lực của Hồ Thiết Sanh vừa rồi ngay cả bà đón tiếp e cũng phải thọ thương nhẹ huống hồ những đại hán này hoàn toàn không chống đỡ. Nếu không phải tà thuật bàng môn thì cũng là một môn công phu hộ thân kỳ dị.
Hồ Thiết Sanh cười khẩy nói :
- Kẻ này chẳng tin trên đời lại có người đánh không chết, hãy tiếp một chưởng nữa xem.
Đoạn lại với tám thành chân lực thi triển Huyền Huyền Nhất Thức, chỉ nghe tiếng bùng bùng và tiếng gào thét liên hồi, bọn đại hán bị đánh văng ra xa hơn ba trượng, đất tuyết dính đầy mình.
Nhưng họ vẫn không thọ thương, nhe răng toét niệng lồm cồm bò dậy, lại hung hãn lao vào Hồ Thiết Sanh.
Hồ Thiết Sanh bất giác biến sắc mặt, thầm nhủ :
“Huyền Huyền Nhất Thức ngay cả Vi Ngọc Cầm còn không tiếp nổi, bọn đại hán này chả lẽ mình đồng da sắt hay sao?”
Hồ Thiết Sanh lại hướng về phía Quan Tiêu Thiên, lớn tiếng nói :
- Quan tiền bối không nhận ra vãn bối, chẳng lẽ Bạch Diêu Hồng con gái của tiền bối cũng không cần luôn sao? Hiện lệnh ái đang ở gần đây thôi.
Quan Tiêu Thiên trầm giọng :
- Lão phu không có con gái, ngươi đừng nói vớ vẩn.
Dư Mộng Chân nói :
- Lý trí của ông ấy đã mất, ngươi đừng có phí lời nữa.
Bọn đại hán ấy lại lao đến, Hồ Thiết Sanh vừa định xuất thủ, Dư Mộng Chân đã nắm tay chàng tung mình lùi sau năm sáu bước, nói :
- Hãy giữa sức lại để đấu với người trên lầu, chúng ta lên đi.
Hai người tung mình lên, đứng trên lan can lầu, chỉ thấy trong lầu tối mù mịt, không nhìn thấy cảnh vật.
Dư Mộng Chân đưa tay xô cửa, nhanh nhẹn lướt vào, Hồ Thiết Sanh không dám khinh suất, vội theo sát bà.
Vừa vào bên trong, hai người liền cảm thấy hàn khí buốt xương, hệt như đang đứng trong hố tuyết. Chỉ thấy trong lầu một màu trắng xóa, trên vách sàn và mọi gia cụ đều phủ một lớp băng dày, một văn sĩ trung niên hai tay chắp sau lưng trừ trong bước ra.
Dư Mộng Chân bật lên một tiếng sửng sốt, lắp bắp không nói nên lời, và cả Hồ Thiết Sanh cũng sững người ra, trân trối nhìn văn sĩ trung niên.
Chỉ thấy văn sĩ trung niên ấy đôi mày kiếm dài đến tóc mai, mắt sáng như sao, chiếc áo dài lam trên mình không dính một hạt bụi, tướng mạo siêu phàm thoát tục, như hết sức lấy làm lạ trước cái nhìn trân trối của Dư Mộng Chân và Hồ Thiết Sanh, một thoáng ngẩn người rồi mới ngồi xuống chiếc ghế thái sư phủ băng dày.
Dư Mộng Chân ngạc nhiên nói :
- Lạc Dật đó phải không? Sao lại trở thành Bảo chủ Phi Hồn bảo thế này?
Văn sĩ trung niên ngẩn người, cười khẩy nói :
- Tôn giá nói vớ vẩn gì vậy? Ai là Lạc Dật? Lạc Dật là ai?
Hồ Thiết Sanh là một cô nhi, lúc lên bảy đã theo sư phụ học võ nghệ, hãy còn nhớ láng máng hình bóng của sư phụ, vừa rồi chàng đã thấy quen quen, giờ nghe Dư Mộng Chân đề cập, cánh cửa ký ức liền mở ra.
Không sai! Đây chính là sư phụ, nghe nói lúc chàng tám tuổi, sư phụ và sư mẫu đã ngộ nạn thất tung, tuy trong ký ức sư phụ là một người trẻ tuổi, nhưng tính theo thời gian, nếu sư phụ còn sống thì cũng đã tuổi trung niên rồi.
Hồ Thiết Sanh xúc động đến máu nóng sục sôi, lớn tiếng nói :
- Sư phụ không còn nhận ra Sanh nhi nữa sao?
Văn sĩ trung niên đưa mắt nhìn Hồ Thiết Sanh, lắc đầu nói :
- Rõ đều là kẻ điên khùng, ai là sư phụ của ngươi?
Hồ Thiết Sanh mắt ngập lệ tiến tới nói :
- Sư phụ hãy nhìn kỹ xem, đồ nhi là Hồ Thiết Sanh đây.
Văn sĩ trung niên mặt hiện sát cơ, Dư Mộng Chân vội lướt tới, nắm tay Hồ Thiết Sanh kéo lui ra, truyền âm nói :
- Sanh nhi, lão thân tuy khẳng định người này chính là sư phụ Lạc Dật đã mất tích muời mấy năm qua của ngươi, nhưng trong bảo này mọi sự đều rất đáng nghi, qua cử chỉ và thái độ của y, dường như quả thật là không nhận ra chúng ta. Thử nghĩ, xưa khi lão thân đã từng đích thân truyền thụ võ công cho y và Bạch Băng, dù y không nhận ra ngươi thì cũng phải nhận ra lão thân, xem ra chuyện này hẳn là có vấn đề.
Văn sĩ trung niên mặt trắng bệch, dưới sự phản chiếu của băng tuyết trong nhà, không có chút máu nào, lạnh lùng nhìn Dư Mộng Chân nói :
- Tôn giá là ai?
- Bổn nhân là Dư Mộng Chân, ngoại hiệu Ma Thủ Hồng Nhan, Lạc Dật, hãy nghĩ kỹ xem, khi xưa bổn nhân từng truyền võ công cho tôn giá.
Văn sĩ trung niên lắc đầu :
- Bổn Bảo chủ lần đầu tiên mới nghe danh tánh ấy. Lạ thật, tôn giá đã vào được Phi Hồn bảo, hẳn nhiên là thân thủ bất phàm, sao bổn Bảo chủ chưa từng nghe nói đến danh tánh thế nhỉ?
Dư Mộng Chân lắc mạnh đầu :
- Bảo chủ có biết Bạch Băng không?
Văn sĩ trung niên ngẫm nghĩ một hồi, lẩm bẩm :
- Bạch Băng... Bạch Băng...
Đoạn vẫn lắc đầu nói :
- Dường như có nghe đến danh tánh này, chẳng hay là nam hay nữ?
Dư Mộng Chân nhấn mạnh giọng :
- Bạch Băng là con gái của Ma Già Bạch Long Xuyên, và cũng là vợ của tôn giá, khi xưa bổn nhân đã từng truyền thụ võ công cho hai người, về sau vì trưởng bối của hai người bất hòa nên đã bị kẻ gian lợi dụng hãm hại. Vì thế hai người Tề Lỗ song tàn đã thọ trọng thương, nhưng vẫn cố sức đưa thi thể hai người về đến nhà, việc này thật là khó hiểu...
Văn sĩ trung niên chậm rãi đứng lên, cười lạnh lùng nói :
- Toàn là chuyện vớ vẩn, bổn Bảo chủ chưa từng nghe bao giờ.
Dư Mộng Chân và Hồ Thiết Sanh ngơ ngác nhìn nhau, nhưng Dư Mộng Chân tin chắc mình chưa già đến mức mắt mờ, đã nhìn lầm người, mỉm cười nói :
- Vậy Bảo chủ có thể cho biết đại danh chăng?
Văn sĩ trung niên đanh mặt :
- Chỉ cần biết bổn nhân là Bảo chủ Phi Hồn bảo là đủ, không cần hỏi nhiều.
Dư Mộng Chân lớn tiếng :
- Tôn giá chính là Lạc Dật, ngoại hiệu Vô Sao Kiếm, bổn nhân tuyệt đối không nhìn lầm.
Văn sĩ trung niên nhướng mày, vỗ tay liền ba cái, sau đó lại ngồi xuống ghế.
Lập tức gió lạnh nổi lên, sức lạnh càng gia tăng, chỉ thấy trên người văn sĩ trung niên nhanh chóng phủ đầy một lớp sương dày, và hai bàn tay cũng phủ một lớp băng mỏng.
Đây là môn võ công gì thế này? Dư Mộng Chân và Hồ Thiết Sanh kinh hãi, vội vận tụ công lực giới bị.
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.