Chương 5
Bạc Yên
04/11/2020
Edit: Châu
Thuận Nương vừa về phòng liền mau chóng đóng cửa, áp tai vào cửa nghe ngóng động tĩnh bên ngoài. Vừa nãy nàng ta đi ra ngoài tìm đồ ăn, không cẩn thận lạc đường tới gần Tàng Kinh các, nhìn thấy Gia Nhu ở phía xa đang bị một người đàn ông cao lớn lôi kéo. Nàng ta vốn muốn gọi người đến, nhưng chẳng biết ma xui quỷ khiến thế nào mà lại im lặng.
Liễu thị đang dọn dẹp trong phòng quay đầu lại nhìn nàng ta: “Mẹ tưởng con bảo đói nên đi ăn mà, sao trông mất hồn mất vía thế?”
Thuận Nương bước tới bên thị, thì thầm kể lại chuyện nàng ta vừa lén thấy ở bên kia cho thị nghe.
Liễu thị kinh hãi, cầm tay nàng ta: “Con không nhìn lầm đấy chứ?”
Thuận Nương gật mạnh đầu: “Tuyệt đối không lầm, con thấy kẻ kia kia đánh Ngọc Hồ bất tỉnh rồi ôm Quận chúa vào Thiên điện, sau đó không thấy ra nữa.”
Liễu thị còn đang ngây người thì nghe được tiếng bước chân ở bên ngoài, lặng lẽ he hé cửa ra, nhìn thấy A Thường và Gia Nhu cùng trở về. Phòng nghỉ của bọn họ ở cùng một viện, cách nhau không xa.
Thị bèn căn dặn Thuận Nương: “Chuyện vừa rồi con hãy làm như không nhìn thấy.”
“Quận chúa đã có hôn ước, còn cùng nam tử khác cấu kết, thật là vô liêm sỉ. Hay ta đi nói cho cha hả mẹ?” Thuận Nương đề nghị.
Liễu thị lập tức lắc đầu: “Chuyện cáo trạng không dễ thế đâu, Vương phi sao chịu ngồi yên chứ. Con trai của bà ấy là Thế tử, con gái là Quận chúa, lại có cả dòng họ Thôi thị ở Thanh Hà làm chỗ dựa, cha con lẽ nào sẽ nghe chúng ta? Đến lúc đó trừ em trai của con ra, chúng ta sẽ chẳng giành được điều gì tốt lành hết.”
Thuận Nương thoáng rùng mình. Nàng ta còn nhỏ tuổi, không nghĩ được xa như vậy: “Là con sơ xuất.”
Liễu thị vuốt vai Thuận Nương: “Con phải nhớ kỹ, chúng ta xuất thân thấp hèn, không mong được cha con nuông chiều, càng không phải là đối thủ của Vương phi. Chẳng thà con ngoan ngoãn để bản thân có được một hôn sự tốt, đó mới là việc quan trọng.”
Thuận Nương thất vọng nói: “Con hiểu mà. Con chỉ thấy uất ức thay cho Lý gia thôi. Vì sao Quận chúa có bến đỗ như vậy mà không biết quý trọng?”
Liễu thị ôm Thuận Nương vào trong lòng: “Cuộc đời chính là như vậy đấy. Có được rồi thì coi như đó là đương nhiên. Có điều con cũng đừng quá hâm mộ, ẹm nghe có tỷ muội từ Trường An tới nói, việc hôn nhân này kỳ thực trông vậy nhưng không phải vậy đâu.”
Thuận Nương ngẩng đầu nhìn Liễu thị: “Nói sao ạ?”
“Thế gia đại tộc ở Trường An coi trọng nhất là dòng dõi xuất thân. Người Quận chúa hứa hôn chính là nhi tử của phu nhân tái giá, về mặt thân phận vốn là kém người khác một bậc. Hơn nữa vị công tử kia ốm yếu bệnh tật, bản thân không có chút công danh gì. Vân Nam vương ở Nam Chiếu thì phong quang đấy, nhưng nếu đến Trường An cũng chẳng có mấy người tiếp đãi, Quận chúa gả đến đó cũng chả có gì tốt .”
“Nói sao đi nữa thì cũng con dâu danh môn, con thì còn chưa dám ước được đến kinh đô một lần cơ” Thuận Nương ngượng ngùng nói, “Đại để sau này chắc con chỉ có thể gả cho con thứ của một trong những thị tộc loanh quanh trong Nam Chiếu mà thôi.”
Liễu thị nói rằng: “Con ta ngốc lắm, đợi sau khi Quận chúa xuất giá rồi, con chính là con gái duy nhất còn lại của Vân Nam vương. Chỉ cần Vương phi chịu cân nhắc, cũng có thể được nhà tử tế, có khả năng được con trai dòng trưởng ấy chứ. Thiếp chỉ như quần áo, nên là dù cho dòng dõi kém một chút, chỉ cần có thể làm chính thê là tốt rồi.”
Thuận Nương ngoài miệng đồng ý nhưng trong lòng còn lâu mới chấp nhận. Nam Chiếu cái nơi nhỏ xíu như vậy, dù có là quý tộc thì cũng vẫn lộ ra dáng vẻ tiểu môn tiểu hộ keo kiệt cùng nông cạn dạng như Điền phu nhân mà hôm nay vừa gặp phải mà thôi.
Nàng ta chỉ cần nghĩ đến ngày sau gả vào gia đình như vậy, cả ngày tranh chấp những chuyện vặt vãnh cùng mẹ chồng, đi theo một phu quân suốt ngày phi ngựa chọi gà thì thấy mất hết cả hi vọng.
Nàng ta từ bé đã được nghe mẫu thân đọc thơ về Trường An, “Ngũ Lăng bạn trẻ chợ Kim gần, ngựa trắng yên vàng lướt gió xuân[1].”
Những thanh niên tài tuấn kiểu này mới là những người nàng ta chân chính ngóng chờ.
Thê hay thiếp thì hề gì? Chỉ cần là người đàn ông mà nàng ta thật lòng thích thì sẽ có trăm phương ngàn cách cướp đoạt trái tim hắn ta.
Khát vọng của nàng ta là bay thật cao thật xa trong trời đất này.
[1] Thiếu niên hành kỳ 2 – Lý Bạch
Ngũ Lăng niên thiếu Kim thị đông.
Ngân yên bạch mã độ xuân phong.
Lạc hoa đạp tận du hà xứ ?
Tiếu nhập hồ cơ tửu tứ trung.
Chàng thiếu niên Ngũ Lăng phía đông chợ Kim
Cưỡi ngựa trắng yên bạc lướt qua gió xuân
Giẫm nát hết hoa, đi đâu chơi đây?
Vừa cười vừa bước vào quán rượu.
Dịch thơ
Ngũ Lăng bạn trẻ chợ Kim gần
Ngựa trắng yên vàng lướt gió xuân
Giẫm nát hoa rơi đâu chỗ tới?
Cười đùa vào quán rượu giai nhân.
(Bản dịch của Trần Trọng Kim, Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hoá, 1997)
Ngọc Hồ được Gia Nhu đưa vào phòng nghỉ. Nha hoàn của nàng chỉ bị đánh bất tỉnh, thương thế không nghiêm trọng lắm.
Gia Nhu cùng A Thường đi gặp Thôi thị, Thôi thị nghe xong những gì A Thường thuật lại thì rất kinh hãi: “Y dám đuổi tới tận nơi đây ư?”
A Thường nói: “Đúng vậy! Y thật to gan, thấy Nam Chiếu ta là địa bàn nhỏ nên muốn đến thì đến, muốn đi thì đi. Lúc ấy Thiên điện đông người, nô tỳ sợ lắm người nhiều miệng cho nên chẳng dám làm ầm lên.”
“Vú làm đúng lắm.”
Ngu Bắc Huyền thân là Tiết độ sứ một phương mà bằng lòng ở lại Nam Chiếu lâu như vậy vì Gia Nhu là điều Thôi thị không nghĩ tới. Lúc này toàn bộ thế cuộc ở vùng Giang Hoài đều phải dựa vào y, trên đời không biết có bao nhiêu người muốn giết y. Phô trương như vậy chỉ mang nguy hiểm đến cho Gia Nhu mà thôi.
Thôi thị dặn dò A Thường: “Bảo phủ binh ở bên ngoài tăng cường tuần tra. Báo cho tăng nhân trong chùa, nói là người trong phủ không cẩn thận làm mất một con mèo, nhờ bọn họ tìm giúp.”
Chùa Sùng Thánh có rất nhiều khu cấm địa, người của vương phủ không tiện đi lại khắp nơi. Lấy cái cớ tìm mèo cũng là cơ hội cho bọn họ lục soát cả khu chùa một lượt, bảo đảm không có kẻ nào còn ẩn náu lại.
Sau khi A Thường ra ngoài, Thôi thị bèn ngồi xuống cạnh Gia Nhu cẩn thận kiểm tra vết thương trên cổ nàng, đoạn đi lấy hòm thuốc lại.
Vết thương chỉ sượt qua da chứ không sâu, sau khi thoa thuốc thì chỉ để lại một vết hồng nhạt.
“Mẹ, không cần dán băng đâu, con thay xiêm y khác là che khuất vết thương được mà.” Gia Nhu nói nhỏ. Dán băng sẽ làm vết thương lộ ra rõ ràng, thế nào cũng có người đàm tiếu.
“Vậy con đi đi.” Thôi thị biết Gia Nhu không muốn nói nhiều nên không hỏi thêm nữa. Trước đó, Thôi thị còn có chút nửa tin nửa ngờ, không tin Gia Nhu buông bỏ được Ngu Bắc Huyền, thì nay với việc kịch liệt phản kháng nhất quyết không chịu đi theo Ngu Bắc Huyền đi, xem ra con gái của bà đã thật sự kết thúc với y rồi.
Gia Nhu trở lại phòng nghỉ của mình. Ngọc Hồ đã tỉnh, đang ngồi thừ trên giường. Gia Nhu đi tới hỏi: “Em có thấy khó chịu ở đâu không?”
Ngọc Hồ hoàn hồn, vội kêu lên: “Quận chúa có sao không ạ? Nô tỳ hình như trông thấy…”
Gia Nhu làm động tác giữ miệng, nói nhỏ: “Không sao rồi, người kia đã đi rồi, hẳn là sẽ không xuất hiện nữa đâu.”
Nếu nàng nhớ không nhầm, chẳng bao lâu nữa triều đình sẽ hạ chỉ để Ngu Bắc Huyền đi đến vùng phía đông Sơn Nam dẹp loạn. Tuy rằng Ngu Bắc Huyền không thu hồi được vùng đất bên ấy như ý nguyện, nhưng y sẽ cưới được Quận chúa Trường Bình.
Thân thế Quận chúa Trường Bình cũng thật đáng thương . Lúc còn rất nhỏ thì cha và mấy anh đều chết trận sa trường, mẹ nàng ta cũng tuẫn tiết theo. Thái hậu không đành lòng bèn nhận nàng ấy đưa vào trong cung nuôi lớn, nàng ấy cùng với Quảng Lăng vương có cảm tình rất thâm hậu.
Mà Quảng Lăng vương sau này chính là Nguyên Hòa đế, người hạ chỉ đưa nàng ra pháp trường ngũ mã phanh thây.
Thật ra cả nàng và Trường Bình đều ngốc như nhau, vì một kẻ không yêu mình mà lại tranh đấu với nhau, cuối cùng đều mất mạng.
Đời này nàng vì bản thân mình, vi vọng sống thoải mái thì tốt.
Chẳng qua là Gia Nhu không biết được kết cục của đời trước, rốt cuộc là Nguyễn Hòa Đế thắng, hay là Ngu Bắc Huyền thắng.
Buổi chiều sau khi lễ từ đường xong, Thôi thị liền dẫn người trong vương phủ trở về.
Phương trượng Tuệ Năng, trụ trì chùa Sùng Thánh đích thân đưa tiễn. Phương trượng râu tóc bạc trắng, lông mày như tơ, mặc áo Thất y[2] màu đỏ, lưng hơi còng. Tuệ Năng là cao tăng đắc đạo từng được Thiên tử mời vào trong cung giảng đạo, tôn là thánh tăng. Ai nấy đều nói ngài trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, tinh thông Phật pháp cùng y thuật, lưu truyền như thần linh.
[1] Áo Thất y là 1 loại áo của nhà chùa, hình dáng như áo choàng, từ trái sang phải có bảy sọc kéo dài xuống. Mặc áo này khi trai tăng, nghe kinh, tụng kinh, ngồi thiền, lễ Phật, lễ tháp, lễ Hòa Thượng, lễ Thầy Tổ, nhóm họp.
Dưới mắt Gia Nhu mà nói cũng chỉ như hòa thượng bình thường, chẳng thấy ba đầu sáu tay đâu.
“A di đà Phật, xin mời Vương phi dừng chân nói chuyện một lát.” Tuệ Năng chắp tay thi lễ với Thôi thị.
Thôi thị theo Tuệ Năng đi về phía chân tường, bên trong tường trồng đầy những cây đào, cành lá đan xen trải dài, đầu cành cây có mấy quả đào lớn tươi rói.
Thôi thị bỏ mũ chàng mạng ra: “Xin Đại sư cứ nói thẳng, đừng ngại.”
Tuệ Năng cúi người hành lễ, sau đó nói: “Hôm nay để Vương phi cùng Quận chúa bị sợ hãi, là do cạnh bức tường tây viện có một đoạn mương nước bỏ hoang, thường ngày không ai chú ý đến, đại để là mèo con ra vào theo đường đó. Hiện tại đã lấp kín mương, sẽ không xảy ra chuyện gì nữa.”
Thôi thị hiểu ngụ ý củaTuệ Năng, đáp lễ nói: “Đa tạ đại sư.”
Tuệ Năng lắc lắc đầu, lại hỏi: “Theo bần tăng biết, Quận chúa đã định việc hôn nhân từ nhỏ?”
“Phải. Vì sao Đại sư lại nhắc đến chuyện này?”
Tuệ Năng tiếp tục nói: “Bần tăng là người xuất gia, vốn không nên bàn đến chuyện phàm trần. Nhưng hôm nay gặp được Vương phi cũng coi như duyên phận, nhân đây nhắc lại chuyện xưa. Năm đó Đại Vương từng mang bát tự của Quận chúa cùng vị lang quân kia đến hỏi bần tăng, sau khi bần tăng tính ra bọn họ thực là duyên trời tác hợp thì Đại Vương cao hứng rời đi.”
Thôi thị sửng sốt, không ngờ Mộc Thành Tiết lại quan tâm đến nhân duyên của Gia Nhu đến thế, bà cứ nghĩ rằng Vương gia không tin chuyện tướng số này. Tuệ Năng là cao tăng đắc đạo, ông ấy xem hẳn là không sai.
“Đa tạ Đại sư đã báo cho ta việc này.” Thôi thị đăm chiêu rồi hỏi thêm: “Ta nghe nói vị lang quân kia vốn ốm yếu, chỉ sợ mệnh không được thọ… Kính xin đại sư chỉ điểm cho.”
“A di đà Phật. Tuổi thọ người ta vốn là trời định, việc này bần tăng không dám nói bừa. Xin Vương phi đi thong thả.” Tuệ Năng nói xong liền mang theo tăng chúng trở về trong chùa.
Cửa chùa Sùng Thánh chậm rãi đóng lại, tăng nhân bắt đầu đi quét từng bậc thang chùa, Thôi thị vẫn còn đứng nguyên tại chỗ. Nàng tin Phật, cũng tin tưởng vào nhân duyên trời định.
“Mẹ, không còn sớm nữa, chúng ta nên về thôi.” Gia Nhu lên tiếng nhắc nhở.
Thôi thị lúc này mới đội lại mũ chàng mạng, bảo mọi người khởi hành.
Đoàn người vương phủ vừa đi vừa nghỉ, đến gần hoàng hôn mới tới được cửa thành. Đúng lúc một phủ binh phi ngựa như bay tới, dừng ở trước mặt Thôi thị và Gia Nhu rồi xuống ngựa hành lễ: “Vương phi, Quận chúa, Thế tử đã về thành rồi ạ.”
Thôi thị cùng Gia Nhu đều vui mừng, Gia Nhu vội vã cúi người xuống hỏi: “Thế tử đang ở đâu?”
Mặt Phủ binh lộ vẻ khó nói, vòng vo mãi mới lên tiếng: “Thế tử ở trong phủ bức bối quá nên đã ghé chợ Bắc mua đồ. Chẳng may gặp phải lang quân Điền gia, hai bên tranh giành. Tiểu nhân chạy về gọi viện binh ạ.”
Biết Mộc Cảnh Thanh vốn có ân oán với Điền Đức Thành, Gia Nhu bèn nói với Thôi thị: “Mẹ, để con đi xem.”
“Nhất định phải cẩn thận đấy.” Thôi thị dặn dò, “Nhị Lang tính tình kích động, con đừng hồ đồ gây sự như nó.”
“Con biết rồi.” Gia Nhu nhanh chóng dẫn ba mươi phủ binh giục ngựa như bay về hướng chợ Bắc.
Thành Dương Tư Mị có bố cục gần giống với thành Trường An, trong thành phân chia theo quy tắc phố phường nhà cửa riêng, chợ búa riêng. Cửa hàng cửa hiệu đều tập trung ở hai chợ Nam, Bắc. Chợ Bắc chủ yếu là khách buôn ngoại lai, mua bán ngựa, tơ lụa, gốm sứ và lá trà theo dạng bán buôn, bán từ buổi trưa, đến hoàng hôn thì ngừng.
Giờ này vốn đã là lúc ngừng buôn bán nhưng dân chúng vẫn còn vây quanh cổng chợ xem trò vui.
Đoàn người chia làm hai nhóm, một nhóm người đông thế mạnh, dẫn đầu là một gã lưng hùm vai gấu đang cười lạnh nói: “Thằng nhóc thối tha, cuối cùng ngươi cũng quay về. Năm ngoái ngươi đánh ta một chưởng, hôm nay ta nhất định phải đòi lại cả vốn lẫn lãi!”
Đứng đối diện hắn ta là một thiếu niên ngũ quan tuấn tú, làn da ngăm ngăm đang ngẩng cao đầu. Cậu ta vén cao tay áo, hai tay chống nạnh: “Điền Đức Thành, bản thế tử vừa mới về thành một cái là ngươi tìm đến gây chuyện ngay được, có phải ngươi luôn theo dõi ta không? Bớt nói nhảm, lên đi!”
Điền Đức Thành hận đến nghiến răng nghiến lợi, sai đám tùy tùng đứng sau: “Còn chờ cái gì? Mau thay ta chào hỏi Thế tử cho đàng hoàng!”
Một đám người giương nanh múa vuốt chực xông lên trước, kẻ nào kẻ nấy đều hung tợn.
Khi hai bên sắp sửa động thủ thì cũng là lúc Gia Nhu đến nơi, nàng lớn tiếng quát: “Mộc Cảnh Thanh, dừng tay lại!”
Thuận Nương vừa về phòng liền mau chóng đóng cửa, áp tai vào cửa nghe ngóng động tĩnh bên ngoài. Vừa nãy nàng ta đi ra ngoài tìm đồ ăn, không cẩn thận lạc đường tới gần Tàng Kinh các, nhìn thấy Gia Nhu ở phía xa đang bị một người đàn ông cao lớn lôi kéo. Nàng ta vốn muốn gọi người đến, nhưng chẳng biết ma xui quỷ khiến thế nào mà lại im lặng.
Liễu thị đang dọn dẹp trong phòng quay đầu lại nhìn nàng ta: “Mẹ tưởng con bảo đói nên đi ăn mà, sao trông mất hồn mất vía thế?”
Thuận Nương bước tới bên thị, thì thầm kể lại chuyện nàng ta vừa lén thấy ở bên kia cho thị nghe.
Liễu thị kinh hãi, cầm tay nàng ta: “Con không nhìn lầm đấy chứ?”
Thuận Nương gật mạnh đầu: “Tuyệt đối không lầm, con thấy kẻ kia kia đánh Ngọc Hồ bất tỉnh rồi ôm Quận chúa vào Thiên điện, sau đó không thấy ra nữa.”
Liễu thị còn đang ngây người thì nghe được tiếng bước chân ở bên ngoài, lặng lẽ he hé cửa ra, nhìn thấy A Thường và Gia Nhu cùng trở về. Phòng nghỉ của bọn họ ở cùng một viện, cách nhau không xa.
Thị bèn căn dặn Thuận Nương: “Chuyện vừa rồi con hãy làm như không nhìn thấy.”
“Quận chúa đã có hôn ước, còn cùng nam tử khác cấu kết, thật là vô liêm sỉ. Hay ta đi nói cho cha hả mẹ?” Thuận Nương đề nghị.
Liễu thị lập tức lắc đầu: “Chuyện cáo trạng không dễ thế đâu, Vương phi sao chịu ngồi yên chứ. Con trai của bà ấy là Thế tử, con gái là Quận chúa, lại có cả dòng họ Thôi thị ở Thanh Hà làm chỗ dựa, cha con lẽ nào sẽ nghe chúng ta? Đến lúc đó trừ em trai của con ra, chúng ta sẽ chẳng giành được điều gì tốt lành hết.”
Thuận Nương thoáng rùng mình. Nàng ta còn nhỏ tuổi, không nghĩ được xa như vậy: “Là con sơ xuất.”
Liễu thị vuốt vai Thuận Nương: “Con phải nhớ kỹ, chúng ta xuất thân thấp hèn, không mong được cha con nuông chiều, càng không phải là đối thủ của Vương phi. Chẳng thà con ngoan ngoãn để bản thân có được một hôn sự tốt, đó mới là việc quan trọng.”
Thuận Nương thất vọng nói: “Con hiểu mà. Con chỉ thấy uất ức thay cho Lý gia thôi. Vì sao Quận chúa có bến đỗ như vậy mà không biết quý trọng?”
Liễu thị ôm Thuận Nương vào trong lòng: “Cuộc đời chính là như vậy đấy. Có được rồi thì coi như đó là đương nhiên. Có điều con cũng đừng quá hâm mộ, ẹm nghe có tỷ muội từ Trường An tới nói, việc hôn nhân này kỳ thực trông vậy nhưng không phải vậy đâu.”
Thuận Nương ngẩng đầu nhìn Liễu thị: “Nói sao ạ?”
“Thế gia đại tộc ở Trường An coi trọng nhất là dòng dõi xuất thân. Người Quận chúa hứa hôn chính là nhi tử của phu nhân tái giá, về mặt thân phận vốn là kém người khác một bậc. Hơn nữa vị công tử kia ốm yếu bệnh tật, bản thân không có chút công danh gì. Vân Nam vương ở Nam Chiếu thì phong quang đấy, nhưng nếu đến Trường An cũng chẳng có mấy người tiếp đãi, Quận chúa gả đến đó cũng chả có gì tốt .”
“Nói sao đi nữa thì cũng con dâu danh môn, con thì còn chưa dám ước được đến kinh đô một lần cơ” Thuận Nương ngượng ngùng nói, “Đại để sau này chắc con chỉ có thể gả cho con thứ của một trong những thị tộc loanh quanh trong Nam Chiếu mà thôi.”
Liễu thị nói rằng: “Con ta ngốc lắm, đợi sau khi Quận chúa xuất giá rồi, con chính là con gái duy nhất còn lại của Vân Nam vương. Chỉ cần Vương phi chịu cân nhắc, cũng có thể được nhà tử tế, có khả năng được con trai dòng trưởng ấy chứ. Thiếp chỉ như quần áo, nên là dù cho dòng dõi kém một chút, chỉ cần có thể làm chính thê là tốt rồi.”
Thuận Nương ngoài miệng đồng ý nhưng trong lòng còn lâu mới chấp nhận. Nam Chiếu cái nơi nhỏ xíu như vậy, dù có là quý tộc thì cũng vẫn lộ ra dáng vẻ tiểu môn tiểu hộ keo kiệt cùng nông cạn dạng như Điền phu nhân mà hôm nay vừa gặp phải mà thôi.
Nàng ta chỉ cần nghĩ đến ngày sau gả vào gia đình như vậy, cả ngày tranh chấp những chuyện vặt vãnh cùng mẹ chồng, đi theo một phu quân suốt ngày phi ngựa chọi gà thì thấy mất hết cả hi vọng.
Nàng ta từ bé đã được nghe mẫu thân đọc thơ về Trường An, “Ngũ Lăng bạn trẻ chợ Kim gần, ngựa trắng yên vàng lướt gió xuân[1].”
Những thanh niên tài tuấn kiểu này mới là những người nàng ta chân chính ngóng chờ.
Thê hay thiếp thì hề gì? Chỉ cần là người đàn ông mà nàng ta thật lòng thích thì sẽ có trăm phương ngàn cách cướp đoạt trái tim hắn ta.
Khát vọng của nàng ta là bay thật cao thật xa trong trời đất này.
[1] Thiếu niên hành kỳ 2 – Lý Bạch
Ngũ Lăng niên thiếu Kim thị đông.
Ngân yên bạch mã độ xuân phong.
Lạc hoa đạp tận du hà xứ ?
Tiếu nhập hồ cơ tửu tứ trung.
Chàng thiếu niên Ngũ Lăng phía đông chợ Kim
Cưỡi ngựa trắng yên bạc lướt qua gió xuân
Giẫm nát hết hoa, đi đâu chơi đây?
Vừa cười vừa bước vào quán rượu.
Dịch thơ
Ngũ Lăng bạn trẻ chợ Kim gần
Ngựa trắng yên vàng lướt gió xuân
Giẫm nát hoa rơi đâu chỗ tới?
Cười đùa vào quán rượu giai nhân.
(Bản dịch của Trần Trọng Kim, Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hoá, 1997)
Ngọc Hồ được Gia Nhu đưa vào phòng nghỉ. Nha hoàn của nàng chỉ bị đánh bất tỉnh, thương thế không nghiêm trọng lắm.
Gia Nhu cùng A Thường đi gặp Thôi thị, Thôi thị nghe xong những gì A Thường thuật lại thì rất kinh hãi: “Y dám đuổi tới tận nơi đây ư?”
A Thường nói: “Đúng vậy! Y thật to gan, thấy Nam Chiếu ta là địa bàn nhỏ nên muốn đến thì đến, muốn đi thì đi. Lúc ấy Thiên điện đông người, nô tỳ sợ lắm người nhiều miệng cho nên chẳng dám làm ầm lên.”
“Vú làm đúng lắm.”
Ngu Bắc Huyền thân là Tiết độ sứ một phương mà bằng lòng ở lại Nam Chiếu lâu như vậy vì Gia Nhu là điều Thôi thị không nghĩ tới. Lúc này toàn bộ thế cuộc ở vùng Giang Hoài đều phải dựa vào y, trên đời không biết có bao nhiêu người muốn giết y. Phô trương như vậy chỉ mang nguy hiểm đến cho Gia Nhu mà thôi.
Thôi thị dặn dò A Thường: “Bảo phủ binh ở bên ngoài tăng cường tuần tra. Báo cho tăng nhân trong chùa, nói là người trong phủ không cẩn thận làm mất một con mèo, nhờ bọn họ tìm giúp.”
Chùa Sùng Thánh có rất nhiều khu cấm địa, người của vương phủ không tiện đi lại khắp nơi. Lấy cái cớ tìm mèo cũng là cơ hội cho bọn họ lục soát cả khu chùa một lượt, bảo đảm không có kẻ nào còn ẩn náu lại.
Sau khi A Thường ra ngoài, Thôi thị bèn ngồi xuống cạnh Gia Nhu cẩn thận kiểm tra vết thương trên cổ nàng, đoạn đi lấy hòm thuốc lại.
Vết thương chỉ sượt qua da chứ không sâu, sau khi thoa thuốc thì chỉ để lại một vết hồng nhạt.
“Mẹ, không cần dán băng đâu, con thay xiêm y khác là che khuất vết thương được mà.” Gia Nhu nói nhỏ. Dán băng sẽ làm vết thương lộ ra rõ ràng, thế nào cũng có người đàm tiếu.
“Vậy con đi đi.” Thôi thị biết Gia Nhu không muốn nói nhiều nên không hỏi thêm nữa. Trước đó, Thôi thị còn có chút nửa tin nửa ngờ, không tin Gia Nhu buông bỏ được Ngu Bắc Huyền, thì nay với việc kịch liệt phản kháng nhất quyết không chịu đi theo Ngu Bắc Huyền đi, xem ra con gái của bà đã thật sự kết thúc với y rồi.
Gia Nhu trở lại phòng nghỉ của mình. Ngọc Hồ đã tỉnh, đang ngồi thừ trên giường. Gia Nhu đi tới hỏi: “Em có thấy khó chịu ở đâu không?”
Ngọc Hồ hoàn hồn, vội kêu lên: “Quận chúa có sao không ạ? Nô tỳ hình như trông thấy…”
Gia Nhu làm động tác giữ miệng, nói nhỏ: “Không sao rồi, người kia đã đi rồi, hẳn là sẽ không xuất hiện nữa đâu.”
Nếu nàng nhớ không nhầm, chẳng bao lâu nữa triều đình sẽ hạ chỉ để Ngu Bắc Huyền đi đến vùng phía đông Sơn Nam dẹp loạn. Tuy rằng Ngu Bắc Huyền không thu hồi được vùng đất bên ấy như ý nguyện, nhưng y sẽ cưới được Quận chúa Trường Bình.
Thân thế Quận chúa Trường Bình cũng thật đáng thương . Lúc còn rất nhỏ thì cha và mấy anh đều chết trận sa trường, mẹ nàng ta cũng tuẫn tiết theo. Thái hậu không đành lòng bèn nhận nàng ấy đưa vào trong cung nuôi lớn, nàng ấy cùng với Quảng Lăng vương có cảm tình rất thâm hậu.
Mà Quảng Lăng vương sau này chính là Nguyên Hòa đế, người hạ chỉ đưa nàng ra pháp trường ngũ mã phanh thây.
Thật ra cả nàng và Trường Bình đều ngốc như nhau, vì một kẻ không yêu mình mà lại tranh đấu với nhau, cuối cùng đều mất mạng.
Đời này nàng vì bản thân mình, vi vọng sống thoải mái thì tốt.
Chẳng qua là Gia Nhu không biết được kết cục của đời trước, rốt cuộc là Nguyễn Hòa Đế thắng, hay là Ngu Bắc Huyền thắng.
Buổi chiều sau khi lễ từ đường xong, Thôi thị liền dẫn người trong vương phủ trở về.
Phương trượng Tuệ Năng, trụ trì chùa Sùng Thánh đích thân đưa tiễn. Phương trượng râu tóc bạc trắng, lông mày như tơ, mặc áo Thất y[2] màu đỏ, lưng hơi còng. Tuệ Năng là cao tăng đắc đạo từng được Thiên tử mời vào trong cung giảng đạo, tôn là thánh tăng. Ai nấy đều nói ngài trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, tinh thông Phật pháp cùng y thuật, lưu truyền như thần linh.
[1] Áo Thất y là 1 loại áo của nhà chùa, hình dáng như áo choàng, từ trái sang phải có bảy sọc kéo dài xuống. Mặc áo này khi trai tăng, nghe kinh, tụng kinh, ngồi thiền, lễ Phật, lễ tháp, lễ Hòa Thượng, lễ Thầy Tổ, nhóm họp.
Dưới mắt Gia Nhu mà nói cũng chỉ như hòa thượng bình thường, chẳng thấy ba đầu sáu tay đâu.
“A di đà Phật, xin mời Vương phi dừng chân nói chuyện một lát.” Tuệ Năng chắp tay thi lễ với Thôi thị.
Thôi thị theo Tuệ Năng đi về phía chân tường, bên trong tường trồng đầy những cây đào, cành lá đan xen trải dài, đầu cành cây có mấy quả đào lớn tươi rói.
Thôi thị bỏ mũ chàng mạng ra: “Xin Đại sư cứ nói thẳng, đừng ngại.”
Tuệ Năng cúi người hành lễ, sau đó nói: “Hôm nay để Vương phi cùng Quận chúa bị sợ hãi, là do cạnh bức tường tây viện có một đoạn mương nước bỏ hoang, thường ngày không ai chú ý đến, đại để là mèo con ra vào theo đường đó. Hiện tại đã lấp kín mương, sẽ không xảy ra chuyện gì nữa.”
Thôi thị hiểu ngụ ý củaTuệ Năng, đáp lễ nói: “Đa tạ đại sư.”
Tuệ Năng lắc lắc đầu, lại hỏi: “Theo bần tăng biết, Quận chúa đã định việc hôn nhân từ nhỏ?”
“Phải. Vì sao Đại sư lại nhắc đến chuyện này?”
Tuệ Năng tiếp tục nói: “Bần tăng là người xuất gia, vốn không nên bàn đến chuyện phàm trần. Nhưng hôm nay gặp được Vương phi cũng coi như duyên phận, nhân đây nhắc lại chuyện xưa. Năm đó Đại Vương từng mang bát tự của Quận chúa cùng vị lang quân kia đến hỏi bần tăng, sau khi bần tăng tính ra bọn họ thực là duyên trời tác hợp thì Đại Vương cao hứng rời đi.”
Thôi thị sửng sốt, không ngờ Mộc Thành Tiết lại quan tâm đến nhân duyên của Gia Nhu đến thế, bà cứ nghĩ rằng Vương gia không tin chuyện tướng số này. Tuệ Năng là cao tăng đắc đạo, ông ấy xem hẳn là không sai.
“Đa tạ Đại sư đã báo cho ta việc này.” Thôi thị đăm chiêu rồi hỏi thêm: “Ta nghe nói vị lang quân kia vốn ốm yếu, chỉ sợ mệnh không được thọ… Kính xin đại sư chỉ điểm cho.”
“A di đà Phật. Tuổi thọ người ta vốn là trời định, việc này bần tăng không dám nói bừa. Xin Vương phi đi thong thả.” Tuệ Năng nói xong liền mang theo tăng chúng trở về trong chùa.
Cửa chùa Sùng Thánh chậm rãi đóng lại, tăng nhân bắt đầu đi quét từng bậc thang chùa, Thôi thị vẫn còn đứng nguyên tại chỗ. Nàng tin Phật, cũng tin tưởng vào nhân duyên trời định.
“Mẹ, không còn sớm nữa, chúng ta nên về thôi.” Gia Nhu lên tiếng nhắc nhở.
Thôi thị lúc này mới đội lại mũ chàng mạng, bảo mọi người khởi hành.
Đoàn người vương phủ vừa đi vừa nghỉ, đến gần hoàng hôn mới tới được cửa thành. Đúng lúc một phủ binh phi ngựa như bay tới, dừng ở trước mặt Thôi thị và Gia Nhu rồi xuống ngựa hành lễ: “Vương phi, Quận chúa, Thế tử đã về thành rồi ạ.”
Thôi thị cùng Gia Nhu đều vui mừng, Gia Nhu vội vã cúi người xuống hỏi: “Thế tử đang ở đâu?”
Mặt Phủ binh lộ vẻ khó nói, vòng vo mãi mới lên tiếng: “Thế tử ở trong phủ bức bối quá nên đã ghé chợ Bắc mua đồ. Chẳng may gặp phải lang quân Điền gia, hai bên tranh giành. Tiểu nhân chạy về gọi viện binh ạ.”
Biết Mộc Cảnh Thanh vốn có ân oán với Điền Đức Thành, Gia Nhu bèn nói với Thôi thị: “Mẹ, để con đi xem.”
“Nhất định phải cẩn thận đấy.” Thôi thị dặn dò, “Nhị Lang tính tình kích động, con đừng hồ đồ gây sự như nó.”
“Con biết rồi.” Gia Nhu nhanh chóng dẫn ba mươi phủ binh giục ngựa như bay về hướng chợ Bắc.
Thành Dương Tư Mị có bố cục gần giống với thành Trường An, trong thành phân chia theo quy tắc phố phường nhà cửa riêng, chợ búa riêng. Cửa hàng cửa hiệu đều tập trung ở hai chợ Nam, Bắc. Chợ Bắc chủ yếu là khách buôn ngoại lai, mua bán ngựa, tơ lụa, gốm sứ và lá trà theo dạng bán buôn, bán từ buổi trưa, đến hoàng hôn thì ngừng.
Giờ này vốn đã là lúc ngừng buôn bán nhưng dân chúng vẫn còn vây quanh cổng chợ xem trò vui.
Đoàn người chia làm hai nhóm, một nhóm người đông thế mạnh, dẫn đầu là một gã lưng hùm vai gấu đang cười lạnh nói: “Thằng nhóc thối tha, cuối cùng ngươi cũng quay về. Năm ngoái ngươi đánh ta một chưởng, hôm nay ta nhất định phải đòi lại cả vốn lẫn lãi!”
Đứng đối diện hắn ta là một thiếu niên ngũ quan tuấn tú, làn da ngăm ngăm đang ngẩng cao đầu. Cậu ta vén cao tay áo, hai tay chống nạnh: “Điền Đức Thành, bản thế tử vừa mới về thành một cái là ngươi tìm đến gây chuyện ngay được, có phải ngươi luôn theo dõi ta không? Bớt nói nhảm, lên đi!”
Điền Đức Thành hận đến nghiến răng nghiến lợi, sai đám tùy tùng đứng sau: “Còn chờ cái gì? Mau thay ta chào hỏi Thế tử cho đàng hoàng!”
Một đám người giương nanh múa vuốt chực xông lên trước, kẻ nào kẻ nấy đều hung tợn.
Khi hai bên sắp sửa động thủ thì cũng là lúc Gia Nhu đến nơi, nàng lớn tiếng quát: “Mộc Cảnh Thanh, dừng tay lại!”
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.