Thái Tử Cố Chấp Là Chồng Cũ Của Ta
Chương 35:
Bát Nguyệt Vu Hạ
16/05/2024
@Nương nên rời khỏi đây rồi.@
Trước kia, khi Tôn Đạo Bình châm cứu cho Thẩm thị, Chu ma ma đã nói hết một năm một mười về nguyên nhân của căn “bệnh” này cho Dung Thư nghe.
Hơn hai tháng trước, phụ thân uống rượu say, ngủ lại ở Thanh Hành Viện một đêm.
Ngày Dung Thư lại mặt hôm đó, kỳ kinh nguyệt của Thẩm thị chậm mấy ngày, khi đó Thẩm thị đã nghi ngờ mình có thai, muốn Chu ma ma kê đơn thuốc bỏ đứa bé đi.
Nhưng khi đó Chu ma ma đã khuyên bà, nói bà vốn đã uống thuốc tránh thai rồi, có lẽ vì lo liệu chuyện xuất giá của Dung Thư nên mới mệt, thành ra bị chậm kỳ kinh nguyệt.
Khi Chu ma ma nói những lời này tất nhiên cũng có tư tâm của mình, bà ta vẫn luôn ngóng trông Thẩm thị có thể sinh được một đứa con trai, như thế thì ở Hầu phủ bà ấy cũng có thể sống thẳng lưng được một chút.
Trong mắt Chu ma ma, sở dĩ cái vị ở Thu Vận Đường kia có thể được lão phu nhân và Hầu gia yêu thích là bởi vì trong số ba thê thiếp, người nọ là người duy nhất sinh được con trai.
Nhưng Thẩm thị quyết định không sinh cho Dung Tuần thêm một đứa con nữa, thấy mãi mà vẫn chưa đến kỳ kinh nguyệt, sau khi ra phủ bắt mạch phát hiện ra hỉ mạch, bà ấy đã bảo đại phu kê một đơn thuốc phá thai.
Nhưng ngày hôm đó Dung Thư quay về Hầu phủ, bà ấy chỉ có thể đổ chén thuốc kia đi. Mãi cho đến mười ngày sau khi Dung Thư đã quay về nhà họ Cố, bà ấy mới bảo hạ nhân sắc thuốc một lần nữa.
Sau khi uống thuốc kia rồi, Thẩm thị bị đau mấy hôm, cho rằng đã bỏ được đứa bé kia.
“Đứa bé đó muốn đến thế gian này du ngoạn một chuyến, vậy nên kể cả khi chén thuốc tàn ác đó vào bụng rồi, nó vẫn không muốn đi.” Chu ma ma lau lau nước mắt ở khóe mắt. “Nhưng phu nhân nhẫn tâm không cần nó, lại bảo lão nô đi sắc một liều thuốc mạnh hơn nữa. Vừa mới uống thuốc đó vào thì phu nhân đã đau một ngày một đêm, rốt cuộc đến sáng hôm nay thì không cầm được máu.”
Khi Thẩm thị uống chén thuốc thứ hai, bà ấy đã không nhịn được mà rơi nước mắt, vuốt ve bụng dưới của mình, nói xin lỗi.
Khi biết không cầm máu được, bà ấy còn nói với Chu ma ma rằng: “Cứ cho rằng đứa nhỏ này không nỡ rời xa người mẹ là ta, muốn ta xuống dưới đó cùng nó đi thôi. Cũng may là Chiêu Chiêu đã xuất giá, ta cũng không còn gì nuối tiếc nữa.”
Nhớ lại những gì đã xảy ra trước đó, Chu ma ma hối hận đến xanh cả ruột.
Trước kia bà ta không nên khuyên, nếu bỏ đứa bé kia sớm hơn, phu nhân cũng sẽ không xảy ra chuyện như thế này.
Bà ta đã chuẩn bị tinh thần rồi, nếu như phu nhân không chịu nổi, vậy thì bà ta cũng không muốn sống nữa.
Chỉ là trước khi chết, bà ta phải đến Hà An Đường và Thu Vận Đường quậy một trận, tóm lại là đại tiểu thư đã xuất giá rồi, bà ta cũng không cần phải bận tâm chuyện thể diện nữa.
Dung Thư nghe xong tiền căn hậu quả, sự chán ghét đối với phụ thân trong lòng nàng đã đạt đến cực điểm.
Khi nàng rời khỏi Hầu phủ chỉ mới được bốn tuổi, tổ mẫu bị ngã gãy chân, cứ khăng khăng nói là do nàng, nương tự đi đến Thu Vận Đường tìm phụ thân, cuối cùng hai người cãi nhau một trận to.
Phụ thân là một đứa con có hiếu, nhưng cho tới bây giờ ông ấy không phải là một vị trượng phu tốt, cũng không phải là một vị phụ thân tốt.
Sau khi đi Dương Châu về, nàng đã phát hiện cuộc sống của nương ở Hầu phủ quá khó khăn. Mỗi người trong phủ này đều nói trong lòng phụ thân chỉ có Bùi di nương, trước kia cưới nương cũng chỉ là vì tuân theo mệnh lệnh của tổ phụ.
Nhưng nếu như không thích, vậy tại sao còn chạm vào nương cơ chứ?
Nếu như đã là một vị trượng phu tốt, vậy thì sao nương lại phải đến mức dù uống hai chén thuốc kia cũng phải bỏ đứa bé cơ chứ? Sau khi say rượu nếu như ông ấy có thể kiểm soát được chính mình, vậy thì hôm nay nương cũng sẽ không gặp tai nạn bất ngờ này.
Cố Trường Tấn không thích nàng, nhưng ít nhất chưa từng đưa một di nương đến vả mặt nàng, cũng chưa từng vừa ghét bỏ nàng lại vừa thèm muốn cơ thể nàng.
Trong lòng Dung Thư thầm nghĩ nếu như nương thật sự xảy ra chuyện gì, vậy thì nàng nhất định phải khiến cho những người ở hầu phủ không ngày nào được sống yên bình.
Trước kia nương vì nàng mà nhân nhượng khắp nơi.
Nàng cũng vì nương mà chịu đựng khắp chốn.
Kết quả lại rơi vào kết cục như thế này sao?
Đang nghĩ ngợi, một chuỗi tiếng gõ cửa vang lên cắt đứt dòng suy nghĩ của nàng.
Dung Thư đẩy cửa bước ra ngoài thì thấy một phụ nhân khoác một chiếc áo choàng màu vàng nghệ đi dưới hành lang, hơi hơi thở hổn hển, vội vã nói: “Chiêu Chiêu, nương con thế nào rồi? Hôm nay đại bá mẫu đi đến miếu một chuyến để làm pháp sự, vừa về đã nghe thuộc hạ nói ở đây xảy ra chuyện nên vội đến đây hỏi một chút.”
Phụ nhân này chính là đại bá mẫu của Dung Thư, Chu thị.
Từ sau khi đại bá phụ qua đời, đại bá mẫu ở góa, chỉ trông chừng đại đường huynh mà sống. Ngày thường bà ít giao du với bên ngoài, hiếm khi ra khỏi cửa, cho dù có đi thì cũng chỉ đến các chùa miếu làm pháp sự.
Đại bá mẫu và nương của nàng dù rằng không lui tới nhiều nhưng mối quan hệ giữa Dung Thư với đại bá mẫu và đại đường huynh thực ra rất tốt.
Năm nàng ba tuổi từng lạc đường trong phủ, bất cẩn đến Trầm Nhân Viện mà đại bá mẫu sống.
Lúc đó cũng bởi vì lão phu nhân, những người trong phủ này đều coi nàng là người mang đến điềm xấu, khi đó tuy nàng còn nhỏ tuổi nhưng trong lòng vẫn có thể cảm nhận được thái độ của người khác đối với mình.
Vào nhầm sân của đại bá mẫu, trong lòng nàng đang sợ hãi sẽ bị trưởng bối quở trách.
Nhưng đại bá mẫu lại không hề để tâm đến chuyện này, sau khi đã hết kinh ngạc thì đã đến bế nàng lên, dịu dàng hỏi: “Bé con ngọc tuyết này từ đâu đến đây?”
Nói rồi bèn sai nha hoàn bưng điểm tâm và hoa quả cho nàng, lại lấy dương quải (1) cho nàng chơi.
Đại đường huynh từ học đường về, còn bảo đại đường huynh đi chơi đắp người tuyết cùng nàng.
“Đại Lang, đây là đại muội muội của con, Chiêu Chiêu, hiếm khi muội muội đến đây, con chơi cùng với nó một lát, đừng vùi đầu trong thư phòng đọc sách cả ngày.”
Đại đường huynh Dung Trạch là một người cực kỳ ôn hòa và hiếu thuận, nghe thế lập tức “vâng” một tiếng, chuyên tâm chơi với Dung Thư một hồi lâu.
Một ngày lạnh như thế mà Dung Thư chơi đến đổ mồ hôi, lúc Thẩm thị đến đón nàng, nàng còn ôm một gốc cây hạnh cổ thụ ở Trầm Nhân Viện không chịu buông tay, khiến cho Thẩm thị vừa buồn cười vừa tức giận.
Hôm đó khi Dung Thư từ Dương Châu về, trong Hà An Đường đầy người đang ngồi.
Giữa một chúng huynh đệ tỷ muội đó, đại đường huynh là người đầu tiên cười nói với nàng: “Chiêu Chiêu, muội cuối cùng cũng về rồi.”
Dung Thư thật sự không thích cái nhà này, cũng không thích rất nhiều người ở hầu phủ, nhưng nàng lại luôn thích người của đại phòng (2), bất kể là đại bá mẫu hay đại đường huynh.
Ở trong mắt Dung Thư, ngoài nương của nàng ra, đại bá mẫu của nhà họ Dung là người duy nhất không chịu khuất phục.
Phủ Thừa An hầu là huân tước (3), vốn có lương thực và bổng lộc thu từ đất phong, mỗi năm đều có thu thuế lương thực, vải vóc, lăng la tơ lụa hoặc là vải đay.
Trước kia nếu như đại bá phụ không chết, vậy thì giờ đây đại đường huynh chính là thế tử hầu phủ, sau này cũng sẽ là người thừa kế phủ Thừa An hầu.
Khắp thượng kinh ai mà không biết nhà họ Dung có thể trở thành quý tộc đều là dựa vào Dung lão thái gia và Dung Quân?
Sau khi Dung Tuần trở thành Thừa An hầu cũng không tham lam chút bổng lộc lương thực của hầu phủ, bốn phần chia cho đại phòng, ba phần chia cho nhị phòng, ba phần còn lại thuộc về tam phòng.
Dung lão phu nhân luôn không tỉnh táo đối với mấy chuyện lớn có lẽ là bởi vì có một nhi tức rất được lòng người nên lại tỉnh táo được một lần, của cải nào nên cho đại phòng hoặc nhị phòng, bà chưa từng keo kiệt khi nào.
Chu thị chính là dựa vào chút của hồi môn ít ỏi và phần lương thực tiền của được chia để nuôi đường huynh lớn.
Phụ thân của bà trước kia là Thiếu Khanh Thái Thường Tự, về điểm này, Chu thị rất có khí khái của một quý nữ thế gia.
Bà sẽ không vì chút lợi lộc cỏn con này mà đi nịnh nọt Dung lão phu nhân, hoặc là cố ý giao hảo với Thẩm thị, cũng sẽ không vì chút quan hệ lúc xưa với Bùi Vận và nhà họ Bùi mà kết giao thân thiết với Thu Vận Đường.
Từ trước đến nay bà vẫn luôn thản nhiên, không gần không xa giữ mình trong Trầm Nhân Viện, không tranh không đoạt.
Nếu như thật sự phải nói, vậy thì Dung Thư thậm chí còn tin tưởng Chu thị hơn Dung Tuần nhiều.
Chu thị vừa xuất hiện, nàng lập tức đỏ hốc mắt, cố gắng nhịn xuống cảm giác cay cay ở chóp mũi, nói: “Tôn y chính của Thái Y Viện đã khám cho nương rồi, tuy là đã hết nguy hiểm nhưng trước mắt vẫn chưa biết khi nào thì nương có thể tỉnh lại.”
Tiểu cô nương cả ngày không uống một giọt nước, giọng nói còn hơi khàn khàn, Chu thị nhìn nàng thật lâu, chợt buông tiếng thở dài.
Cùng là nữ nhân với nhau, bà vẫn luôn biết Thẩm thị sống không dễ dàng gì.
Bà là người không có trượng phu, người của nhà mẹ đẻ đều đã qua đời cả, chỉ có thể làm góa phụ, một mình chăm hài tử ở đây, nhưng Thẩm thị có trượng phu, cũng còn nhà mẹ đẻ, ấy vậy mà cuộc sống còn khó khăn hơn một quả phụ như bà.
Chu thị bước lên nắm tay Dung Thư, an ủi nói: “Tam đệ muội cát nhân thiên tướng, chắc chắn có thể gặp dữ hóa lạnh, Chiêu Chiêu đừng lo lắng quá.”
Trên người Chu thị vẫn còn mùi đàn hương nồng đượm, Dung Thư nhẹ nhàng “Vâng” một tiếng, cố nhịn nước mắt xuống, nói tiếp: “Hôm nay đại bá mẫu đã bận rộn trong miếu cả ngày rồi, hãy mau trở về nghỉ ngơi đi ạ, bằng không khi nương tỉnh lại sẽ lại nói con không biết quy củ.”
Chu thị dịu dàng nói: “Tam đệ muội thương con nhất, sao nỡ nói thế được?”
Thấy sắc mặt Dung Thư tái nhợt, bà lại nói: “Người ta dính toàn tro, cũng nên quay về đổi một bộ xiêm y khác. Nếu như có việc gì thì con bảo người truyền lời cho Trầm Nhân Viện, đừng sợ quấy nhiễu đại bá mẫu, dù sao đại bá mẫu cũng không bận gì cả.”
Dung Thư đồng ý, tự tiễn Chu thị ra khỏi Thanh Hành Viện.
Lần này Chu thị đến khiến cho lệ khí gần như không thể đè nén được của Dung Thư tan đi không ít. Nàng nằm tựa xuống sàng tháp, dựa sát vào cánh tay Thẩm thị, chậm rãi nhắm mắt lại.
Bóng đêm dần buông.
Ánh trăng tựa như dòng suối bạc chảy qua những khe hở của những tán cây hòe già trước cửa lớn Hình Bộ, rơi xuống mặt đất.
Một chiếc xe ngựa cũ kỹ mui xanh đang ngừng dưới tàng cây kia.
Cố Trường Tấn cúi người lên xe, Thường Cát lập tức dâng một chén trà lạnh lên.
Gần đây chủ tử thích uống trà lạnh, cậu ta sẽ pha xong trà trước hai khắc, đến lúc đó trà cũng vừa lạnh đi.
Cố Trường Tấn nhận trà, nhuận nhuận cổ họng khàn khàn, hỏi: “Nàng thế nào rồi?”
Thường Cát có phần không nghĩ ra được chữ “nàng” này đến tột cùng là chỉ hầu phu nhân hay là thiếu phu nhân.
Cậu ta suy nghĩ kỹ lưỡng trong chốc lát, nói: “Tôn y chính đến kịp thời, cực kỳ nguy hiểm giữ lại được mệnh cho hầu phu nhân. Nhưng có thể tỉnh lại hay không, khi nào tỉnh lại thì trước mắt tạm thời chưa biết. Tôn y chính nói y còn phải đến hầu phủ châm cứu nửa tháng, đến khi đó có thể biết được hầu phu nhân có thể khỏe lại hay không. Còn thiếu phu nhân, thuộc hạ không thể thấy mặt người được, có lẽ là không dễ chịu lắm.”
Cố Trường Tấn im lặng.
Tình cảm giữa nàng và nương nàng từ trước đến nay vẫn luôn rất tốt, Thẩm thị là nửa mạng sống của nàng, hiện nay tính mạng Thẩm thị đang nghìn cân treo sợi tóc, sao nàng có thể dễ chịu cho được?
“Thuốc kia, ngươi đưa cho nàng chưa?” Chàng thản nhiên hỏi.
Thường Cát híp mắt, căng da đầu nói: “Thiếu phu nhân vẫn luôn chưa từng ra khỏi Thanh Hành Viện, thuộc hạ vốn không có cơ hội đưa nó cho thiếu phu nhân.”
Cố Trường Tấn ngước mắt lên, đôi đồng tử đen tối lẳng lặng nhìn chằm chằm Thường Cát.
Thường Cát sợ nhất là ánh mắt này của chàng, trực tiếp bất chấp tất cả nói: “Thuốc của lão thái y chỉ còn có năm viên, nô tài, Hoành Bình và Chuy Vân đã lấy ba viên, giờ chủ tử chỉ còn lại hai viên. Đây là thuốc có thể cứu mạng, thuộc hạ không muốn lãng phí viên thuốc này. Huống chi, với tính tình trầm ổn của thiếu phu nhân, sao người dám tùy tiện cho hầu phu nhân dùng thuốc chứ? Đương nhiên người sẽ bảo tôn y chính kiểm tra rồi mới dám để cho hầu phu nhân dùng.”
Tôn Đạo Bình tuổi còn trẻ, có lẽ không biết thuốc này do người nào chế, nhưng vị tổ phụ tinh tường kia của y chắc chắn sẽ biết.
Thường Cát không thể để cho chủ tử mạo hiểm thế được.
Nói cậu ta lạnh nhạt cũng được, nói cậu ta tàn nhẫn cũng thế, trong mắt cậu ta, tính mạng của Thẩm thị không đáng lãng phí một viên thuốc có thể cứu được tính mạng của chủ tử vào thời điểm quan trọng.
Thường Cát thà rằng chịu một trận đòn cũng muốn tiết kiệm viên thuốc này.
“Thuộc hạ tự chủ trương, xin chủ tử trách phạt.”
Cố Trường Tấn không nói gì, chỉ chậm rãi hạ mắt xuống.
Lời Thường Cát nói, sao chàng lại không biết được? Chẳng qua khi đó biết bệnh tình của mẫu thân nàng nguy kịch, nhớ đến tình cảm giữa nàng và mẫu thân, chàng bèn bảo Thường Cát đi đưa viên thuốc kia cho nàng theo bản năng.
Hành động khi đó càng giống như một loại bản năng lấn át lý trí.
Mà chàng đúng thật không nên làm thế.
“Tự đi tìm Hoành Bình lãnh hai mươi côn.”
Thường Cát nhẹ nhàng thở ra, cậu ta da dày thịt béo, đối với cậu ta mà nói, bị đánh hai mươi côn chẳng qua chỉ cần nằm một đêm, lần này chủ tử thật sự đã giơ cao đánh khẽ.
Nhưng còn chưa vui vẻ được bao lâu, cậu ta đã nghe Cố Trường Tấn nói: “Nửa tháng kế tiếp, ngươi chỉ có thể ăn màn thầu.”
Thường Cát: “…”
Thường Cát ăn màn thầu hết nửa tháng, mà Tôn Đạo Bình cũng đã đến Thanh Hành Viện châm cứu đủ nửa tháng.
Mỗi ngày đều đến vào giờ Thìn, đến trưa thì đi.
Trong nửa tháng này, Dung Thư vẫn luôn ở Thanh Hành Viện hầu hạ việc thuốc thang cho Thẩm thị, khi nào mệt rồi thì nghỉ ngơi trên chiếc trường kỷ ở bên cạnh.
Cũng không biết Dung Tuần nói với bên Hà An Đường như thế nào, trong nửa tháng này, Dung lão phu nhân cũng không sai bà tử đến nữa.
Nhị bá mẫu Dư thị thì lại tự đến tặng một cây nhân sâm núi, ôn tồn an ủi Dung Thư mấy câu.
Dư thị là người biết xử sự, những năm qua trong lúc giao hảo với Thu Vận Đường cũng không đắc tội với Thanh Hành Viện.
Lúc gặp Thẩm thị, trên mặt vẫn luôn là biểu cảm nhiệt tình, nhưng cũng chỉ thế mà thôi.
Lão phu nhân quản việc trong nhà, khi cần tiền là lại sai người đến Thanh Hành Viện đòi, vừa đến ngày đầu tháng chẵn, bà tử của Hà An Đường sẽ đem sổ sách đến đây.
Nào là phòng nào sân nào cần sửa chữa, nào là lang quân phòng nào muốn mua giấy bút, rồi tiểu nương tử phòng nào muốn may một bộ xiêm y mới, những khoản chi tiêu lớn bé như thế này đều phải đến đào bạc của Thanh Hành Viện.
Thẩm thị hào phóng nhưng cũng khôn khéo, mỗi một khoản chi tiêu đều được tính toán tỉ mỉ, không cần cho thì tuyệt đối sẽ không cho, Dung lão phu nhân tìm đủ loại cớ đòi bạc đều bị Thẩm thị từ chối không lưu tình chút nào.
Còn về phần những cửa hàng và ruộng đất có thể kiếm tiền trong tay Thẩm thị khiến Dung lão phu nhân đỏ mắt hồi lâu, Dung lão phu nhân càng không thể chạm đến được cái nào cả.
Đó cũng là lý do vì sao Dung lão phu nhân nhìn Thẩm thị không vừa mắt.
Trước kia, nhà họ Thẩm vốn không trốn thoát khỏi vận mệnh bị xét nhà, sau khi đã định việc hôn nhân với nhà họ Dung rồi, có Dung lão thái gia hòa giải, lúc này bọn họ mới bình an vô sự vượt qua năm sóng gió đó.
Khi đó nếu không phải vì để hòa giải việc này, Dung lão thái gia cũng sẽ không đến mức ngã ngựa rồi bị bệnh, không sống quá hai năm đã buông tay rời khỏi nhân thế.
Trong mắt Dung lão phu nhân, Dung lão thái gia chết vì nhà họ Thẩm, nhà họ Thẩm nợ nhà họ Dung.
Nếu như không phải nhà họ Thẩm dựa vào cây đại thụ như nhà họ Dung thì năm đó sao có thể tránh được một kiếp kia cơ chứ, việc kinh doanh trong hai mươi năm này tại sao có thể hô mưa gọi gió đến như vậy?
Dung Thư nghe Dung lão phu nhân nói không chỉ một lần, nhà họ Thẩm có được địa vị và tài phú của ngày hôm nay, toàn là dựa vào phủ Thừa An Hầu.
Sau khi Thẩm thị nghe những lời này xong, cười lạnh nói: “Lúc trước khi ta gả đến thượng kinh, ngoại tổ của con đã thông qua tay tổ phụ con, đưa hết phân nửa tài sản của nhà họ Thẩm đến tay của hoàng thượng, công lao đó hoàng thượng lại ghi tạc cho nhà họ Dung. Nếu không có công lao này, làm sao nhà họ Dung có thể có được tước vị hầu phủ dễ dàng như thế, càng đừng nhắc đến những năm nay…”
Những chuyện nội bộ giữa nhà họ Dung và nhà họ Thẩm, Thẩm thị chưa bao giờ muốn để cho Dung Thư biết, chỉ nói đến đây đã vội dừng lại.
Trước kia Dung Thư cũng không biết được những khúc chiết bên trong chuyện nhà họ Dung và nhà họ Thẩm kết thân, nhưng bây giờ, nàng không thể mặc kệ được nữa.
Mua thuốc cho Thẩm thị cần rất nhiều bạc, chỉ cần rảnh rỗi, nàng sẽ lại lật sổ sách ra xem.
Từng khoản, từng khoản chi, rốt cuộc thì mấy năm nay Hà An Đường, Thu Vận Đường và cả nhị phòng đã dùng bao nhiêu bạc của Thẩm thị.
Lúc Trương ma ma bưng thuốc vào, thấy nàng lại chong đèn xem sổ sách thì đau lòng nói: “Cô nương mau để cho mắt nghỉ ngơi một chút đi, cẩn thận xem hư mắt.”
“Dù sao cũng rảnh rỗi, chi bằng xem cho kỹ những khoản nợ cũ của hầu phủ.”
Dung Thư nói rồi đóng sổ sách lại, lấy nước rửa tay, nhận lấy chén thuốc trong tay Trương ma ma.
Phương thuốc bổ máu tỏa mạch mà Tôn Đạo Bình kê cực kỳ có hiệu quả, khuôn mặt trắng bệch trước kia của Thẩm thị mấy ngày nay dần dần đã có huyết sắc hơn.
Hôm nay khi Tôn Đạo Bình đi, vẻ mặt như trút được gánh nặng.
“Giờ mạch của hầu phu nhân tuy yếu nhưng cuối cùng cũng đã ổn định. Nhanh thì ba ngày, chậm thì mười ngày là hẳn có thể tỉnh lại. Chỉ là lần này thân mình của bà bị tổn thương quá nặng, ít nhất cần phải uống thuốc thêm một năm và nghỉ ngơi, bình thường cũng phải bớt suy nghĩ, tốt nhất là để cho tâm trạng được thoải mái, tránh giận dữ hoặc đau buồn.”
Dung Thư biết rõ, trong cái hoàn cảnh như nhà họ Dung bây giờ, giữ cho tâm trạng được thoải mái thì nói dễ hơn làm.
Trước kia vì nàng, vì nhà họ Thẩm mà nương đã chịu không biết bao nhiêu uất ức.
Sau này, nàng sẽ không để nương phải như thế nữa.
Nương nên rời khỏi nơi này rồi.
(1) Xương bánh chè của dê, là đồ chơi hồi xưa của các bé gái phía bắc Trung Quốc, nhất là Đông Bắc, một bộ dương quải bao gồm 4 cái
(2) Tòa nhà hoặc khoảng sân của vợ cả, vợ thứ hai, thứ ba thì gọi là nhị phòng, tam phòng, v.v.
(3) Danh từ quý tộc được phong tước (từ tước hầu trở xuống)
Trước kia, khi Tôn Đạo Bình châm cứu cho Thẩm thị, Chu ma ma đã nói hết một năm một mười về nguyên nhân của căn “bệnh” này cho Dung Thư nghe.
Hơn hai tháng trước, phụ thân uống rượu say, ngủ lại ở Thanh Hành Viện một đêm.
Ngày Dung Thư lại mặt hôm đó, kỳ kinh nguyệt của Thẩm thị chậm mấy ngày, khi đó Thẩm thị đã nghi ngờ mình có thai, muốn Chu ma ma kê đơn thuốc bỏ đứa bé đi.
Nhưng khi đó Chu ma ma đã khuyên bà, nói bà vốn đã uống thuốc tránh thai rồi, có lẽ vì lo liệu chuyện xuất giá của Dung Thư nên mới mệt, thành ra bị chậm kỳ kinh nguyệt.
Khi Chu ma ma nói những lời này tất nhiên cũng có tư tâm của mình, bà ta vẫn luôn ngóng trông Thẩm thị có thể sinh được một đứa con trai, như thế thì ở Hầu phủ bà ấy cũng có thể sống thẳng lưng được một chút.
Trong mắt Chu ma ma, sở dĩ cái vị ở Thu Vận Đường kia có thể được lão phu nhân và Hầu gia yêu thích là bởi vì trong số ba thê thiếp, người nọ là người duy nhất sinh được con trai.
Nhưng Thẩm thị quyết định không sinh cho Dung Tuần thêm một đứa con nữa, thấy mãi mà vẫn chưa đến kỳ kinh nguyệt, sau khi ra phủ bắt mạch phát hiện ra hỉ mạch, bà ấy đã bảo đại phu kê một đơn thuốc phá thai.
Nhưng ngày hôm đó Dung Thư quay về Hầu phủ, bà ấy chỉ có thể đổ chén thuốc kia đi. Mãi cho đến mười ngày sau khi Dung Thư đã quay về nhà họ Cố, bà ấy mới bảo hạ nhân sắc thuốc một lần nữa.
Sau khi uống thuốc kia rồi, Thẩm thị bị đau mấy hôm, cho rằng đã bỏ được đứa bé kia.
“Đứa bé đó muốn đến thế gian này du ngoạn một chuyến, vậy nên kể cả khi chén thuốc tàn ác đó vào bụng rồi, nó vẫn không muốn đi.” Chu ma ma lau lau nước mắt ở khóe mắt. “Nhưng phu nhân nhẫn tâm không cần nó, lại bảo lão nô đi sắc một liều thuốc mạnh hơn nữa. Vừa mới uống thuốc đó vào thì phu nhân đã đau một ngày một đêm, rốt cuộc đến sáng hôm nay thì không cầm được máu.”
Khi Thẩm thị uống chén thuốc thứ hai, bà ấy đã không nhịn được mà rơi nước mắt, vuốt ve bụng dưới của mình, nói xin lỗi.
Khi biết không cầm máu được, bà ấy còn nói với Chu ma ma rằng: “Cứ cho rằng đứa nhỏ này không nỡ rời xa người mẹ là ta, muốn ta xuống dưới đó cùng nó đi thôi. Cũng may là Chiêu Chiêu đã xuất giá, ta cũng không còn gì nuối tiếc nữa.”
Nhớ lại những gì đã xảy ra trước đó, Chu ma ma hối hận đến xanh cả ruột.
Trước kia bà ta không nên khuyên, nếu bỏ đứa bé kia sớm hơn, phu nhân cũng sẽ không xảy ra chuyện như thế này.
Bà ta đã chuẩn bị tinh thần rồi, nếu như phu nhân không chịu nổi, vậy thì bà ta cũng không muốn sống nữa.
Chỉ là trước khi chết, bà ta phải đến Hà An Đường và Thu Vận Đường quậy một trận, tóm lại là đại tiểu thư đã xuất giá rồi, bà ta cũng không cần phải bận tâm chuyện thể diện nữa.
Dung Thư nghe xong tiền căn hậu quả, sự chán ghét đối với phụ thân trong lòng nàng đã đạt đến cực điểm.
Khi nàng rời khỏi Hầu phủ chỉ mới được bốn tuổi, tổ mẫu bị ngã gãy chân, cứ khăng khăng nói là do nàng, nương tự đi đến Thu Vận Đường tìm phụ thân, cuối cùng hai người cãi nhau một trận to.
Phụ thân là một đứa con có hiếu, nhưng cho tới bây giờ ông ấy không phải là một vị trượng phu tốt, cũng không phải là một vị phụ thân tốt.
Sau khi đi Dương Châu về, nàng đã phát hiện cuộc sống của nương ở Hầu phủ quá khó khăn. Mỗi người trong phủ này đều nói trong lòng phụ thân chỉ có Bùi di nương, trước kia cưới nương cũng chỉ là vì tuân theo mệnh lệnh của tổ phụ.
Nhưng nếu như không thích, vậy tại sao còn chạm vào nương cơ chứ?
Nếu như đã là một vị trượng phu tốt, vậy thì sao nương lại phải đến mức dù uống hai chén thuốc kia cũng phải bỏ đứa bé cơ chứ? Sau khi say rượu nếu như ông ấy có thể kiểm soát được chính mình, vậy thì hôm nay nương cũng sẽ không gặp tai nạn bất ngờ này.
Cố Trường Tấn không thích nàng, nhưng ít nhất chưa từng đưa một di nương đến vả mặt nàng, cũng chưa từng vừa ghét bỏ nàng lại vừa thèm muốn cơ thể nàng.
Trong lòng Dung Thư thầm nghĩ nếu như nương thật sự xảy ra chuyện gì, vậy thì nàng nhất định phải khiến cho những người ở hầu phủ không ngày nào được sống yên bình.
Trước kia nương vì nàng mà nhân nhượng khắp nơi.
Nàng cũng vì nương mà chịu đựng khắp chốn.
Kết quả lại rơi vào kết cục như thế này sao?
Đang nghĩ ngợi, một chuỗi tiếng gõ cửa vang lên cắt đứt dòng suy nghĩ của nàng.
Dung Thư đẩy cửa bước ra ngoài thì thấy một phụ nhân khoác một chiếc áo choàng màu vàng nghệ đi dưới hành lang, hơi hơi thở hổn hển, vội vã nói: “Chiêu Chiêu, nương con thế nào rồi? Hôm nay đại bá mẫu đi đến miếu một chuyến để làm pháp sự, vừa về đã nghe thuộc hạ nói ở đây xảy ra chuyện nên vội đến đây hỏi một chút.”
Phụ nhân này chính là đại bá mẫu của Dung Thư, Chu thị.
Từ sau khi đại bá phụ qua đời, đại bá mẫu ở góa, chỉ trông chừng đại đường huynh mà sống. Ngày thường bà ít giao du với bên ngoài, hiếm khi ra khỏi cửa, cho dù có đi thì cũng chỉ đến các chùa miếu làm pháp sự.
Đại bá mẫu và nương của nàng dù rằng không lui tới nhiều nhưng mối quan hệ giữa Dung Thư với đại bá mẫu và đại đường huynh thực ra rất tốt.
Năm nàng ba tuổi từng lạc đường trong phủ, bất cẩn đến Trầm Nhân Viện mà đại bá mẫu sống.
Lúc đó cũng bởi vì lão phu nhân, những người trong phủ này đều coi nàng là người mang đến điềm xấu, khi đó tuy nàng còn nhỏ tuổi nhưng trong lòng vẫn có thể cảm nhận được thái độ của người khác đối với mình.
Vào nhầm sân của đại bá mẫu, trong lòng nàng đang sợ hãi sẽ bị trưởng bối quở trách.
Nhưng đại bá mẫu lại không hề để tâm đến chuyện này, sau khi đã hết kinh ngạc thì đã đến bế nàng lên, dịu dàng hỏi: “Bé con ngọc tuyết này từ đâu đến đây?”
Nói rồi bèn sai nha hoàn bưng điểm tâm và hoa quả cho nàng, lại lấy dương quải (1) cho nàng chơi.
Đại đường huynh từ học đường về, còn bảo đại đường huynh đi chơi đắp người tuyết cùng nàng.
“Đại Lang, đây là đại muội muội của con, Chiêu Chiêu, hiếm khi muội muội đến đây, con chơi cùng với nó một lát, đừng vùi đầu trong thư phòng đọc sách cả ngày.”
Đại đường huynh Dung Trạch là một người cực kỳ ôn hòa và hiếu thuận, nghe thế lập tức “vâng” một tiếng, chuyên tâm chơi với Dung Thư một hồi lâu.
Một ngày lạnh như thế mà Dung Thư chơi đến đổ mồ hôi, lúc Thẩm thị đến đón nàng, nàng còn ôm một gốc cây hạnh cổ thụ ở Trầm Nhân Viện không chịu buông tay, khiến cho Thẩm thị vừa buồn cười vừa tức giận.
Hôm đó khi Dung Thư từ Dương Châu về, trong Hà An Đường đầy người đang ngồi.
Giữa một chúng huynh đệ tỷ muội đó, đại đường huynh là người đầu tiên cười nói với nàng: “Chiêu Chiêu, muội cuối cùng cũng về rồi.”
Dung Thư thật sự không thích cái nhà này, cũng không thích rất nhiều người ở hầu phủ, nhưng nàng lại luôn thích người của đại phòng (2), bất kể là đại bá mẫu hay đại đường huynh.
Ở trong mắt Dung Thư, ngoài nương của nàng ra, đại bá mẫu của nhà họ Dung là người duy nhất không chịu khuất phục.
Phủ Thừa An hầu là huân tước (3), vốn có lương thực và bổng lộc thu từ đất phong, mỗi năm đều có thu thuế lương thực, vải vóc, lăng la tơ lụa hoặc là vải đay.
Trước kia nếu như đại bá phụ không chết, vậy thì giờ đây đại đường huynh chính là thế tử hầu phủ, sau này cũng sẽ là người thừa kế phủ Thừa An hầu.
Khắp thượng kinh ai mà không biết nhà họ Dung có thể trở thành quý tộc đều là dựa vào Dung lão thái gia và Dung Quân?
Sau khi Dung Tuần trở thành Thừa An hầu cũng không tham lam chút bổng lộc lương thực của hầu phủ, bốn phần chia cho đại phòng, ba phần chia cho nhị phòng, ba phần còn lại thuộc về tam phòng.
Dung lão phu nhân luôn không tỉnh táo đối với mấy chuyện lớn có lẽ là bởi vì có một nhi tức rất được lòng người nên lại tỉnh táo được một lần, của cải nào nên cho đại phòng hoặc nhị phòng, bà chưa từng keo kiệt khi nào.
Chu thị chính là dựa vào chút của hồi môn ít ỏi và phần lương thực tiền của được chia để nuôi đường huynh lớn.
Phụ thân của bà trước kia là Thiếu Khanh Thái Thường Tự, về điểm này, Chu thị rất có khí khái của một quý nữ thế gia.
Bà sẽ không vì chút lợi lộc cỏn con này mà đi nịnh nọt Dung lão phu nhân, hoặc là cố ý giao hảo với Thẩm thị, cũng sẽ không vì chút quan hệ lúc xưa với Bùi Vận và nhà họ Bùi mà kết giao thân thiết với Thu Vận Đường.
Từ trước đến nay bà vẫn luôn thản nhiên, không gần không xa giữ mình trong Trầm Nhân Viện, không tranh không đoạt.
Nếu như thật sự phải nói, vậy thì Dung Thư thậm chí còn tin tưởng Chu thị hơn Dung Tuần nhiều.
Chu thị vừa xuất hiện, nàng lập tức đỏ hốc mắt, cố gắng nhịn xuống cảm giác cay cay ở chóp mũi, nói: “Tôn y chính của Thái Y Viện đã khám cho nương rồi, tuy là đã hết nguy hiểm nhưng trước mắt vẫn chưa biết khi nào thì nương có thể tỉnh lại.”
Tiểu cô nương cả ngày không uống một giọt nước, giọng nói còn hơi khàn khàn, Chu thị nhìn nàng thật lâu, chợt buông tiếng thở dài.
Cùng là nữ nhân với nhau, bà vẫn luôn biết Thẩm thị sống không dễ dàng gì.
Bà là người không có trượng phu, người của nhà mẹ đẻ đều đã qua đời cả, chỉ có thể làm góa phụ, một mình chăm hài tử ở đây, nhưng Thẩm thị có trượng phu, cũng còn nhà mẹ đẻ, ấy vậy mà cuộc sống còn khó khăn hơn một quả phụ như bà.
Chu thị bước lên nắm tay Dung Thư, an ủi nói: “Tam đệ muội cát nhân thiên tướng, chắc chắn có thể gặp dữ hóa lạnh, Chiêu Chiêu đừng lo lắng quá.”
Trên người Chu thị vẫn còn mùi đàn hương nồng đượm, Dung Thư nhẹ nhàng “Vâng” một tiếng, cố nhịn nước mắt xuống, nói tiếp: “Hôm nay đại bá mẫu đã bận rộn trong miếu cả ngày rồi, hãy mau trở về nghỉ ngơi đi ạ, bằng không khi nương tỉnh lại sẽ lại nói con không biết quy củ.”
Chu thị dịu dàng nói: “Tam đệ muội thương con nhất, sao nỡ nói thế được?”
Thấy sắc mặt Dung Thư tái nhợt, bà lại nói: “Người ta dính toàn tro, cũng nên quay về đổi một bộ xiêm y khác. Nếu như có việc gì thì con bảo người truyền lời cho Trầm Nhân Viện, đừng sợ quấy nhiễu đại bá mẫu, dù sao đại bá mẫu cũng không bận gì cả.”
Dung Thư đồng ý, tự tiễn Chu thị ra khỏi Thanh Hành Viện.
Lần này Chu thị đến khiến cho lệ khí gần như không thể đè nén được của Dung Thư tan đi không ít. Nàng nằm tựa xuống sàng tháp, dựa sát vào cánh tay Thẩm thị, chậm rãi nhắm mắt lại.
Bóng đêm dần buông.
Ánh trăng tựa như dòng suối bạc chảy qua những khe hở của những tán cây hòe già trước cửa lớn Hình Bộ, rơi xuống mặt đất.
Một chiếc xe ngựa cũ kỹ mui xanh đang ngừng dưới tàng cây kia.
Cố Trường Tấn cúi người lên xe, Thường Cát lập tức dâng một chén trà lạnh lên.
Gần đây chủ tử thích uống trà lạnh, cậu ta sẽ pha xong trà trước hai khắc, đến lúc đó trà cũng vừa lạnh đi.
Cố Trường Tấn nhận trà, nhuận nhuận cổ họng khàn khàn, hỏi: “Nàng thế nào rồi?”
Thường Cát có phần không nghĩ ra được chữ “nàng” này đến tột cùng là chỉ hầu phu nhân hay là thiếu phu nhân.
Cậu ta suy nghĩ kỹ lưỡng trong chốc lát, nói: “Tôn y chính đến kịp thời, cực kỳ nguy hiểm giữ lại được mệnh cho hầu phu nhân. Nhưng có thể tỉnh lại hay không, khi nào tỉnh lại thì trước mắt tạm thời chưa biết. Tôn y chính nói y còn phải đến hầu phủ châm cứu nửa tháng, đến khi đó có thể biết được hầu phu nhân có thể khỏe lại hay không. Còn thiếu phu nhân, thuộc hạ không thể thấy mặt người được, có lẽ là không dễ chịu lắm.”
Cố Trường Tấn im lặng.
Tình cảm giữa nàng và nương nàng từ trước đến nay vẫn luôn rất tốt, Thẩm thị là nửa mạng sống của nàng, hiện nay tính mạng Thẩm thị đang nghìn cân treo sợi tóc, sao nàng có thể dễ chịu cho được?
“Thuốc kia, ngươi đưa cho nàng chưa?” Chàng thản nhiên hỏi.
Thường Cát híp mắt, căng da đầu nói: “Thiếu phu nhân vẫn luôn chưa từng ra khỏi Thanh Hành Viện, thuộc hạ vốn không có cơ hội đưa nó cho thiếu phu nhân.”
Cố Trường Tấn ngước mắt lên, đôi đồng tử đen tối lẳng lặng nhìn chằm chằm Thường Cát.
Thường Cát sợ nhất là ánh mắt này của chàng, trực tiếp bất chấp tất cả nói: “Thuốc của lão thái y chỉ còn có năm viên, nô tài, Hoành Bình và Chuy Vân đã lấy ba viên, giờ chủ tử chỉ còn lại hai viên. Đây là thuốc có thể cứu mạng, thuộc hạ không muốn lãng phí viên thuốc này. Huống chi, với tính tình trầm ổn của thiếu phu nhân, sao người dám tùy tiện cho hầu phu nhân dùng thuốc chứ? Đương nhiên người sẽ bảo tôn y chính kiểm tra rồi mới dám để cho hầu phu nhân dùng.”
Tôn Đạo Bình tuổi còn trẻ, có lẽ không biết thuốc này do người nào chế, nhưng vị tổ phụ tinh tường kia của y chắc chắn sẽ biết.
Thường Cát không thể để cho chủ tử mạo hiểm thế được.
Nói cậu ta lạnh nhạt cũng được, nói cậu ta tàn nhẫn cũng thế, trong mắt cậu ta, tính mạng của Thẩm thị không đáng lãng phí một viên thuốc có thể cứu được tính mạng của chủ tử vào thời điểm quan trọng.
Thường Cát thà rằng chịu một trận đòn cũng muốn tiết kiệm viên thuốc này.
“Thuộc hạ tự chủ trương, xin chủ tử trách phạt.”
Cố Trường Tấn không nói gì, chỉ chậm rãi hạ mắt xuống.
Lời Thường Cát nói, sao chàng lại không biết được? Chẳng qua khi đó biết bệnh tình của mẫu thân nàng nguy kịch, nhớ đến tình cảm giữa nàng và mẫu thân, chàng bèn bảo Thường Cát đi đưa viên thuốc kia cho nàng theo bản năng.
Hành động khi đó càng giống như một loại bản năng lấn át lý trí.
Mà chàng đúng thật không nên làm thế.
“Tự đi tìm Hoành Bình lãnh hai mươi côn.”
Thường Cát nhẹ nhàng thở ra, cậu ta da dày thịt béo, đối với cậu ta mà nói, bị đánh hai mươi côn chẳng qua chỉ cần nằm một đêm, lần này chủ tử thật sự đã giơ cao đánh khẽ.
Nhưng còn chưa vui vẻ được bao lâu, cậu ta đã nghe Cố Trường Tấn nói: “Nửa tháng kế tiếp, ngươi chỉ có thể ăn màn thầu.”
Thường Cát: “…”
Thường Cát ăn màn thầu hết nửa tháng, mà Tôn Đạo Bình cũng đã đến Thanh Hành Viện châm cứu đủ nửa tháng.
Mỗi ngày đều đến vào giờ Thìn, đến trưa thì đi.
Trong nửa tháng này, Dung Thư vẫn luôn ở Thanh Hành Viện hầu hạ việc thuốc thang cho Thẩm thị, khi nào mệt rồi thì nghỉ ngơi trên chiếc trường kỷ ở bên cạnh.
Cũng không biết Dung Tuần nói với bên Hà An Đường như thế nào, trong nửa tháng này, Dung lão phu nhân cũng không sai bà tử đến nữa.
Nhị bá mẫu Dư thị thì lại tự đến tặng một cây nhân sâm núi, ôn tồn an ủi Dung Thư mấy câu.
Dư thị là người biết xử sự, những năm qua trong lúc giao hảo với Thu Vận Đường cũng không đắc tội với Thanh Hành Viện.
Lúc gặp Thẩm thị, trên mặt vẫn luôn là biểu cảm nhiệt tình, nhưng cũng chỉ thế mà thôi.
Lão phu nhân quản việc trong nhà, khi cần tiền là lại sai người đến Thanh Hành Viện đòi, vừa đến ngày đầu tháng chẵn, bà tử của Hà An Đường sẽ đem sổ sách đến đây.
Nào là phòng nào sân nào cần sửa chữa, nào là lang quân phòng nào muốn mua giấy bút, rồi tiểu nương tử phòng nào muốn may một bộ xiêm y mới, những khoản chi tiêu lớn bé như thế này đều phải đến đào bạc của Thanh Hành Viện.
Thẩm thị hào phóng nhưng cũng khôn khéo, mỗi một khoản chi tiêu đều được tính toán tỉ mỉ, không cần cho thì tuyệt đối sẽ không cho, Dung lão phu nhân tìm đủ loại cớ đòi bạc đều bị Thẩm thị từ chối không lưu tình chút nào.
Còn về phần những cửa hàng và ruộng đất có thể kiếm tiền trong tay Thẩm thị khiến Dung lão phu nhân đỏ mắt hồi lâu, Dung lão phu nhân càng không thể chạm đến được cái nào cả.
Đó cũng là lý do vì sao Dung lão phu nhân nhìn Thẩm thị không vừa mắt.
Trước kia, nhà họ Thẩm vốn không trốn thoát khỏi vận mệnh bị xét nhà, sau khi đã định việc hôn nhân với nhà họ Dung rồi, có Dung lão thái gia hòa giải, lúc này bọn họ mới bình an vô sự vượt qua năm sóng gió đó.
Khi đó nếu không phải vì để hòa giải việc này, Dung lão thái gia cũng sẽ không đến mức ngã ngựa rồi bị bệnh, không sống quá hai năm đã buông tay rời khỏi nhân thế.
Trong mắt Dung lão phu nhân, Dung lão thái gia chết vì nhà họ Thẩm, nhà họ Thẩm nợ nhà họ Dung.
Nếu như không phải nhà họ Thẩm dựa vào cây đại thụ như nhà họ Dung thì năm đó sao có thể tránh được một kiếp kia cơ chứ, việc kinh doanh trong hai mươi năm này tại sao có thể hô mưa gọi gió đến như vậy?
Dung Thư nghe Dung lão phu nhân nói không chỉ một lần, nhà họ Thẩm có được địa vị và tài phú của ngày hôm nay, toàn là dựa vào phủ Thừa An Hầu.
Sau khi Thẩm thị nghe những lời này xong, cười lạnh nói: “Lúc trước khi ta gả đến thượng kinh, ngoại tổ của con đã thông qua tay tổ phụ con, đưa hết phân nửa tài sản của nhà họ Thẩm đến tay của hoàng thượng, công lao đó hoàng thượng lại ghi tạc cho nhà họ Dung. Nếu không có công lao này, làm sao nhà họ Dung có thể có được tước vị hầu phủ dễ dàng như thế, càng đừng nhắc đến những năm nay…”
Những chuyện nội bộ giữa nhà họ Dung và nhà họ Thẩm, Thẩm thị chưa bao giờ muốn để cho Dung Thư biết, chỉ nói đến đây đã vội dừng lại.
Trước kia Dung Thư cũng không biết được những khúc chiết bên trong chuyện nhà họ Dung và nhà họ Thẩm kết thân, nhưng bây giờ, nàng không thể mặc kệ được nữa.
Mua thuốc cho Thẩm thị cần rất nhiều bạc, chỉ cần rảnh rỗi, nàng sẽ lại lật sổ sách ra xem.
Từng khoản, từng khoản chi, rốt cuộc thì mấy năm nay Hà An Đường, Thu Vận Đường và cả nhị phòng đã dùng bao nhiêu bạc của Thẩm thị.
Lúc Trương ma ma bưng thuốc vào, thấy nàng lại chong đèn xem sổ sách thì đau lòng nói: “Cô nương mau để cho mắt nghỉ ngơi một chút đi, cẩn thận xem hư mắt.”
“Dù sao cũng rảnh rỗi, chi bằng xem cho kỹ những khoản nợ cũ của hầu phủ.”
Dung Thư nói rồi đóng sổ sách lại, lấy nước rửa tay, nhận lấy chén thuốc trong tay Trương ma ma.
Phương thuốc bổ máu tỏa mạch mà Tôn Đạo Bình kê cực kỳ có hiệu quả, khuôn mặt trắng bệch trước kia của Thẩm thị mấy ngày nay dần dần đã có huyết sắc hơn.
Hôm nay khi Tôn Đạo Bình đi, vẻ mặt như trút được gánh nặng.
“Giờ mạch của hầu phu nhân tuy yếu nhưng cuối cùng cũng đã ổn định. Nhanh thì ba ngày, chậm thì mười ngày là hẳn có thể tỉnh lại. Chỉ là lần này thân mình của bà bị tổn thương quá nặng, ít nhất cần phải uống thuốc thêm một năm và nghỉ ngơi, bình thường cũng phải bớt suy nghĩ, tốt nhất là để cho tâm trạng được thoải mái, tránh giận dữ hoặc đau buồn.”
Dung Thư biết rõ, trong cái hoàn cảnh như nhà họ Dung bây giờ, giữ cho tâm trạng được thoải mái thì nói dễ hơn làm.
Trước kia vì nàng, vì nhà họ Thẩm mà nương đã chịu không biết bao nhiêu uất ức.
Sau này, nàng sẽ không để nương phải như thế nữa.
Nương nên rời khỏi nơi này rồi.
(1) Xương bánh chè của dê, là đồ chơi hồi xưa của các bé gái phía bắc Trung Quốc, nhất là Đông Bắc, một bộ dương quải bao gồm 4 cái
(2) Tòa nhà hoặc khoảng sân của vợ cả, vợ thứ hai, thứ ba thì gọi là nhị phòng, tam phòng, v.v.
(3) Danh từ quý tộc được phong tước (từ tước hầu trở xuống)
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.