Chương 70
Thiếu Địa Qua
17/03/2024
Convert bởi ꍌꀎꉻꋬ꒐ꄟꀎ ở Wiki dịch
Cho dù Tử Kê dập vỡ đầu vẫn không thể cứu được ông nội.
Lão mũi lõ chết vào ngày thứ ba sau khi bị đưa đến quân doanh, tuyệt thực!
Lão thật sự thà chết chứ không tiếp nhận trị liệu của người Đại Lộc, mặc cho Tử Kê khóc cầu thế nào vẫn cắn chặt khớp hàm.
Thân thể vốn đã dầu hết đèn tắt càng nhanh chóng cạn kiệt, đến sáng ngày thứ ba, Tử Kê theo thường lệ muốn đi khuyên lão ăn cơm sáng, sờ vào cơ thể đã lạnh cứng.
Hồng Văn và mọi người cho rằng Tử Kê sẽ khóc rất thảm thiết, thế nhưng hắn lại bình tĩnh không ngờ, trầm mặc quấn xác ông nội rồi thiêu cùng với bộ quần áo rách nát.
Tro cốt rải trên sông, chớp mắt đã bị dòng nước cuồn cuộn nuốt chửng, cuốn về phía phương xa không biết tên.
Nghe nói con sông này nối liền Đại Lộc và Sa Hoàng.
Vương Asim nhỏ giọng giải thích cho Hồng Văn: “Hắn nói lão nằm mơ cũng muốn trở về quê quán nhưng không thể thực hiện được... Dòng sông này sẽ chảy đến cố hương của lão, nhờ vậy lão có thể về thăm quê sau khi chết.”
Hồng Văn hỏi vì sao không thể quay về, Vương Asim nói vùng đất kia từ lâu đã là chiến trường, bị san bằng nhiều lần đến nỗi tuyết rơi vào mùa đông đều có màu đỏ.
Bị nhuộm đỏ bởi vì khắp nơi đều sũng máu.
Khang Hùng đứng ở bờ sông nghe vậy trầm ngâm thật lâu: “Coi như cũng là một hán tử.”
Lão mũi lõ sinh thời luôn ngoác mồm hăng hái mắng chửi, cuối cùng quả thật lấy cái chết minh chứng cho chí khí của mình. Là khối xương cứng.
Vương Asim kinh ngạc: “Tướng quân không hận lão ạ?”
Trước khi chết lão mũi lõ chửi vị chủ soái này mãnh liệt nhất, lời nói tục tĩu hung ác khó có thể tưởng tượng, khiến người nghe xong chỉ muốn xăn tay áo đập lão một trận.
Khang Hùng bật cười, vẻ mặt phức tạp: “Ta trung thành với quốc gia của ta, lão trung thành với Sa Hoàng của lão, ai có chủ nấy mà thôi.”
Nếu như không có chiến tranh, có lẽ mọi người đều là bạn bè, lên núi đi săn không chừng cũng có thể giúp nhau một chút...
Đáng tiếc không có “nếu như“.
Vương Asim gật gật đầu, trầm tư.
Khang Hùng quay sang Tử Kê đang nhìn chằm chằm vào dòng sông suy nghĩ xuất thần, hỏi cùng một vấn đề vừa rồi Vương Asim thắc mắc: “Hận ta không?”
Nếu không phải ông khăng khăng sai người mang lão mũi lõ đến đây, ít nhất lão có thể kéo dài hơi tàn thêm một tháng.
Tử Kê ngồi xổm bên bờ sông, hai mắt đăm đăm, áo bông đen tuyền làm hắn trông như một cây nấm mốc lớn, hồi lâu mới lắc đầu.
Hắn quả thực không biết nên hận ai.
Dường như hận nhất hẳn là bản thân hắn.
Nếu không phải hắn nổi lên ý xấu thì sẽ không bị bắt, nếu không bị bắt thì sẽ không liên lụy ông nội...
Nhưng vì sao ông nội lại rơi vào kết cục này?
Vì sao hắn lại không còn người thân bên cạnh một lần nữa?
Cậu bé mười ba tuổi không thể nào nghĩ ra được.
Khang Hùng ngồi xuống cạnh hắn, giơ tay nhéo nhéo cái gáy gầy đến mức nhô xương: “Về sau đi theo ta thôi.”
Lòng bàn tay thô ráp của ông hơ cổ hắn nóng lên, nóng đến mức khiến Tử Kê run rẩy, sau đó không hiểu sao nước mắt đột nhiên trào ra, bắt đầu rơi lã chã.
Những giọt nước mắt kiềm nén cả ngày đổ xuống như mưa, kèm theo tiếng gào khóc tê tâm liệt phế.
Tử Kê khóc đến mức mắt sưng vù, Khang Hùng chờ hắn khóc xong mới nói: “Ngươi phải học tiếng Hán.”
Tử Kê nấc lên, gật đầu.
Trước kia Tử Kê thường xuyên tới quân doanh bán củi và thú rừng săn được, rất nhiều người đều biết hắn, hiện giờ chính thức lột xác gia nhập danh sách tạp dịch, thực mau hòa nhập vào sinh hoạt tập thể trong doanh trại.
Trải qua mấy tuần trông hắn đã béo hơn hẳn, gương mặt sáng lên niềm hy vọng về tương lai, thỉnh thoảng sẽ hùa theo mọi người cười ngây ngô.
Tuy nhiên hắn vẫn không thể nào học được tiếng Hán trôi chảy, lưỡi hắn giống như trời sinh cong quẹo hơn người Đại Lộc, mỗi khi mở miệng cứ như con rắn đang uốn éo bật lên bật xuống chọc cho mọi người cười ngặt nghẽo, còn hắn thì toát mồ hôi vì cố gắng quá sức.
So với Trung Nguyên có bốn mùa rõ ràng, vùng đất cực bắc này thật quá mức lười biếng, sau khi lập hạ mới õng à õng ẹo tiến vào mùa xuân, không khí ấm áp hơn một chút, dãy núi vốn im lặng trải qua suốt mùa đông nhanh chóng hồi sinh, dường như khoác lên lớp áo xanh chỉ trong một đêm.
Hồng Văn không ngừng bị kinh ngạc trước sự thay đổi hàng ngày của cây cỏ.
Anh chàng bắt đầu thường xuyên theo mọi người vào núi, sau đó nhanh chóng mê mẩn đến hoa mắt bởi các loại dược thảo, nấm và động vật hoang dã lan tràn.
Quá nhiều, dồi dào đến thế, quả thực lấy không hết dùng không cạn!
Hồng Văn dường như hiểu ra vì sao vùng đất này lại “Lười biếng”: Nó tựa như một kẻ ăn chơi trác táng có tổ tông tám đời đều là phú hào, tình hình thực tế là gia đình quá mức giàu có thật khiến người không hề có chí tiến thủ...
Mùa xuân không chỉ khiến con người linh hoạt mà ngay cả món ăn hoang dã trong rừng núi cũng sinh động hơn, thường xuyên từ bụi cỏ cao cao nhảy ra một con thỏ, bay ra vài con gà rừng, tán cây che trời không biết cất giấu bao nhiêu loại chim chóc hót ríu rít.
Sâu trong rừng rậm tràn ngập sức sống tựa như một thế giới khác, biệt lập với thế nhân. Vô số hoa cỏ âm thầm vui vẻ đâm chồi, nở rộ rồi tàn lụi trong một góc không người biết, lặng lẽ hoàn thành vòng luân hồi của sinh mệnh.
Tuy không người xem xét nhưng chúng nó vẫn vui vẻ và thoải mái.
Vốn dĩ vẻ đẹp này không phải để làm hài lòng thiên hạ.
Cứ sau mỗi trận mưa, nấm trong rừng đua nhau trồi lên. Mỗi ngày Khang Hùng đều dẫn quân vào núi huấn luyện, khi trở về thuận đường hái nấm giải quyết sinh kế, một công đôi việc.
Bởi vì nấm quá nhiều, dạo này nhà bếp vô cùng thích thú nấu món đặc sản cho mọi người thưởng thức: Gà rừng hầm nấm, gần như mười ngày hai mươi bữa cơm đều là món này, sáng sớm còn có thể chan canh nấm gà lên bánh bột ngô ăn điểm tâm.
Công bằng mà nói, món này thực sự rất ngon, nấm tươi đúng mùa, gà rừng non được hầm nhừ, nước canh đậm đà thơm ngọt. Ăn một chén vào bụng, toàn thân ba vạn sáu ngàn lỗ chân lông đều cảm thấy thoải mái.
Nhưng cho dù là thịt thiên nga cũng không thể ăn mỗi ngày!
. Khang Hùng lén tới tìm Hồng Văn, nói trong miệng đau quá, ban đêm cũng khô nóng đến mức ngủ không yên.
Hồng Văn bắt mạch cho ông, mạch hoạt, sắc mặt đỏ đậm, môi khô nứt, đại khái đã biết là bệnh gì: “Thúc há mồm để cháu xem ạ.”
Kết quả vừa thấy là đúng bệnh rồi, đầu lưỡi đỏ mọng, trên lưỡi phủ lớp bựa vàng và nhờn, nứu răng xuất hiện vài mụn loét.
“Ăn đồ nóng quá!” Hồng Văn cười nói, “Cháu kê cho thúc vài thang thuốc hạ hỏa, uống hai thang là được. Mấy ngày nay nên ăn những loại rau củ đắng chấm tương, thỉnh thoảng nấu nước kim ngân hoặc bồ công anh uống thanh nhiệt.”
Khang Hùng đằng hắng vài tiếng, hạ giọng hỏi: “Có phải bởi vì cả ngày ăn gà hay không?”
Thật đúng là vậy, Hồng Văn vừa viết phương thuốc vừa giải thích: “Nếu xét ra thì thịt gà tính ấm, là nguyên liệu nấu ăn tương đối bổ dưỡng, tốt cho sức khỏe. Nhưng hiện giờ vào mùa xuân, không khí hanh khô, cơ thể dễ bị nóng nên cần phải áp xuống. Bản thân thúc thuộc loại thể chất dễ sinh hỏa khí, càng thích hợp ăn thịt vịt hay các món ăn có tính hàn, như thế lượng nhiệt trong cơ thể tự nhiên sẽ tiêu đi.”
Khang Hùng vỗ đùi, tức muốn hộc máu: “Ông đây đã bảo bọn nó thay đổi món ăn cho đa dạng, vậy mà chết sống không chịu nghe!”
Hỏa đầu quân trong binh nghiệp chỉ lo nuôi no người ta, nào có mấy người quan tâm đến đổi món đa dạng gì đó!
Hồng Văn cười to, lưu loát viết phương thuốc gồm Xuyên Đại hoàng, Phát tiêu, Cam thảo, lá Bạc hà, tỉ mỉ giải thích công dụng của từng loại cho Khang Hùng nghe.
Khang Hùng vung tay: “Ta cũng không hiểu ba cái này, nghe xong là quên, Hồng Thái y cứ kê đơn là được.”
Hồng Văn nghiêm túc đáp: “Hiểu hay không là chuyện của tướng quân, nói hay không là chuyện của đại phu, hai ta cứ làm việc của mình, không quấy rầy nhau.”
Khang Hùng sửng sốt, lại cười to: “Ha ha ha, nói rất đúng!”
“Nhưng thưa Khang Tướng quân, thúc nên bớt uống rượu, không tốt cho gan đâu ạ.” Hồng Văn khuyên nhủ.
Phương Bắc rét lạnh, khi đánh giặc đặc biệt gian nan, trên dưới trong quân có thói quen dùng rượu mạnh xua cái lạnh, thời gian lâu rồi khó tránh làm gan tổn thương.
Khang Hùng nghe xong, gãi gãi đầu, thành khẩn thú nhận: “Chuyện này hơi khó...”
Hồng Văn cười khuyên: “Sự thành do người, thúc dưỡng thân thể thật tốt mới có thể bảo vệ quốc gia lâu dài.”
Khang Hùng chép miệng: “Thôi thì tận lực vậy.”
Hai người đang nói chuyện, chợt thấy Hồng Nhai đẩy cửa tiến vào, mặt mày hưng phấn: “Mau ra ngoài xem cầu vồng!”
Cầu vồng?
Hồng Văn chạy ra xem xét, tâm thần chấn động.
Đầy trời đều là cầu vồng rực rỡ, kéo dài vạn trượng. Cầu vồng bảy màu sắc thái kỳ diệu, họa sư thế gian không thể nào phối ra được sắc màu như vậy, tựa sương khói, như ráng chiều, giống mưa phùn được gió xuân thổi bay bay, lại giống mảnh lụa dập dềnh trên mặt suối nước trong vắt, lặng lẽ bồng bềnh trên bầu trời cao.
Giống như thiên thần giũ ra tấm màn lụa, lấy trời cao làm nền, ngân hà làm mành, bao trùm khắp thiên địa.
Tất cả mọi người lâm vào trạng thái chấn động mãnh liệt, ngửa đầu ngắm nhìn nói không nên lời.
Thế nhân thường hình dung thợ thủ công có tay nghề cao siêu bằng câu “Khéo tựa tay trời”, nhưng khi thật sự tận mắt chứng kiến cảnh tượng này mới biết “tay trời” có thể tạo ra những thứ kỳ diệu đến độ nào, nhân lực há có thể so bằng?
Tuy Hồng Nhai có kiến thức rộng rãi nhưng thật lâu vẫn chưa lấy lại bình tĩnh, một hồi sau mới cảm khái: “Từ lâu đã nghe nói vùng cực bắc thỉnh thoảng xuất hiện cầu vồng bao trùm trời đất, chỉ mong ước được chứng kiến một lần, hôm nay rốt cuộc mở rộng tầm mắt.”
Hồng Văn cảm thấy đầu óc trống rỗng, tựa như có rất nhiều lời muốn nói, nhưng khi lời sắp ra khỏi miệng lại thầm hận câu từ quá mức nhạt nhẽo yếu ớt, không thể miêu tả nổi cảnh tượng tráng lệ trước mát.
Cuối cùng, thiên ngôn vạn ngữ chỉ đúc thành một câu:
“Đáng tiếc Trưởng công chúa không thấy được!”
**********
Lập hạ trôi qua, đô thành Vọng Yến Đài lại bận rộn nghênh đón mùa yến hội. Thái Hậu thường xuyên triệu tập mệnh phụ và các quý nữ tiến cung trò chuyện và lắng nghe những gì họ thấy ở bên ngoài.
Trưởng công chúa Gia Chân vì tỏ lòng hiếu thảo nên cũng bắt đầu tham dự thường xuyên hơn, song chỉ được vài lần là hứng thú giảm mạnh, miễn cưỡng đến ngồi một chút cho có mặt rồi đi ngay, trở về luôn uể oải không thích làm gì, cứ nhìn chằm chằm vào chiếc làn đan bằng cành liễu treo trên khung cửa sổ mà ngẩn ngơ.
Hôm nay nàng lại rời tiệc sớm, mới vừa vào phòng chính là thấy ngay một chiếc rổ nhỏ xinh xắn đang bằng cành liễu tươi rói đặt ngay ngắn trên bàn, bên trong điểm xuyết những đóa hoa nhiều màu, rất có thú vui thôn dã.
Nàng sửng sốt môt lát, sau đó trong lòng dâng lên một cỗ mừng như điên, khi mở miệng thanh âm hơi phát run: “Đây là ai đưa tới?”
Tiểu cung nữ bên cạnh cầm chổi lông gà phủi bụi, cười nói: “Hồi bẩm Công chúa, là nô tỳ làm, Công chúa thích không ạ?”
Cung nữ này mới được chuyển tới đây năm nay, vô cùng ngưỡng mộ Trưởng công chúa Gia Chân, thấy nàng luôn nhìn chằm chằm cái làn bằng cành khô buồn bực không vui, bèn lặng lẽ quan sát cấu tạo rồi âm thầm đan một cái, muốn cho vị Công chúa này vui vẻ hơn chút.
Cảm giác mừng rỡ mới vừa dâng lên nháy mắt tan biến, như bọt bồ kết nổ bụp dưới ánh mặt trời.
Thanh Nhạn theo sau tiến vào, nghe vậy lập tức biến sắc, đi lên mắng tiểu cung nữ kia: “Ai cho phép ngươi đặt đồ lung tung trong phòng Công chúa?”
Tiểu cung nữ sợ tới mức mặt mày trắng bệch, vội quỳ xuống thỉnh tội: “Nô tỳ đáng chết, nô tỳ...”
“Thôi, ngươi mắng nó làm chi!” Trưởng công chúa Gia Chân xua tay, ỉu xìu nhìn nhìn cái rổ cành liễu kia, tùy tay đặt sang một bên, “Nó cũng có ý tốt.”
Mới vừa rồi thoáng nhìn tưởng giống nhau như đúc, nhưng nhìn lại thì thấy khác xa.
Nói chung, không phải được làm bởi cùng một người.
Thanh Nhạn lúc này mới thôi, cảnh cáo tiểu cung nữ kia vài câu rồi tự mình lại đây rót trà bưng đến cho Trưởng công chúa Gia Chân: “Công chúa đừng phiền não, nô tỳ vừa nghe nói bệ hạ định phái thiên sứ đến đại doanh hướng Đông Bắc, thứ nhất an ủi các tướng sĩ, thứ hai là ngợi khen Tiểu Hồng Thái y. Công chúa xem có thư từ gì muốn gởi kèm hay không, chi bằng viết sớm cho kịp ạ.”
Thiên sứ chính là người đi đến nơi khác truyền chỉ, có thể là thái giám tâm phúc của Hoàng đế, cũng có thể là điểm danh chỉ định và xác nhận thân phận khâm sai, nhiệm vụ là “Sứ giả truyền đạt thánh ý của Thiên tử”, không phải dễ dàng được chọn.
Trưởng công chúa Gia Chân sáng mắt, sau đó lập tức xìu xuống, lười nhác nói: “Không có gì để viết...”
Cho dù viết thư thì thế nào? Tả mấy cũng chẳng tận mắt thấy được, chi bằng không nói.
Nhưng hình như nàng lại nghĩ tới cái gì, đột nhiên ngồi thẳng dậy, gấp gáp hỏi: “Ngươi mới vừa nói, Hoàng huynh muốn phái thiên sứ?”
Thấy nàng rốt cuộc có hứng thú, Thanh Nhạn vội đáp: “Vâng ạ, nói qua mấy ngày sẽ đi, hình như xe ngựa và vật dụng đều chuẩn bị sẵn sàng.”
Đôi mắt của Trưởng công chúa Gia Chân càng lúc càng sáng rực, giống như có ngọn lửa bùng cháy bên trong. Nàng bỗng nhiên nhảy xuống khỏi trường kỷ, chạy vụt ra ngoài nhanh như bay.
“Công chúa đi đâu thế?!” Thanh Nhạn đuổi theo sau.
“Đi tìm Hoàng huynh! Không cần đi theo!” Trưởng công chúa Gia Chân tăng tốc.
Thiên sứ, thiên sứ!
Đúng rồi, sao mình lại không nghĩ ra, sao có thể không nghĩ ra!
Thiên sứ đấy!
Cho dù Tử Kê dập vỡ đầu vẫn không thể cứu được ông nội.
Lão mũi lõ chết vào ngày thứ ba sau khi bị đưa đến quân doanh, tuyệt thực!
Lão thật sự thà chết chứ không tiếp nhận trị liệu của người Đại Lộc, mặc cho Tử Kê khóc cầu thế nào vẫn cắn chặt khớp hàm.
Thân thể vốn đã dầu hết đèn tắt càng nhanh chóng cạn kiệt, đến sáng ngày thứ ba, Tử Kê theo thường lệ muốn đi khuyên lão ăn cơm sáng, sờ vào cơ thể đã lạnh cứng.
Hồng Văn và mọi người cho rằng Tử Kê sẽ khóc rất thảm thiết, thế nhưng hắn lại bình tĩnh không ngờ, trầm mặc quấn xác ông nội rồi thiêu cùng với bộ quần áo rách nát.
Tro cốt rải trên sông, chớp mắt đã bị dòng nước cuồn cuộn nuốt chửng, cuốn về phía phương xa không biết tên.
Nghe nói con sông này nối liền Đại Lộc và Sa Hoàng.
Vương Asim nhỏ giọng giải thích cho Hồng Văn: “Hắn nói lão nằm mơ cũng muốn trở về quê quán nhưng không thể thực hiện được... Dòng sông này sẽ chảy đến cố hương của lão, nhờ vậy lão có thể về thăm quê sau khi chết.”
Hồng Văn hỏi vì sao không thể quay về, Vương Asim nói vùng đất kia từ lâu đã là chiến trường, bị san bằng nhiều lần đến nỗi tuyết rơi vào mùa đông đều có màu đỏ.
Bị nhuộm đỏ bởi vì khắp nơi đều sũng máu.
Khang Hùng đứng ở bờ sông nghe vậy trầm ngâm thật lâu: “Coi như cũng là một hán tử.”
Lão mũi lõ sinh thời luôn ngoác mồm hăng hái mắng chửi, cuối cùng quả thật lấy cái chết minh chứng cho chí khí của mình. Là khối xương cứng.
Vương Asim kinh ngạc: “Tướng quân không hận lão ạ?”
Trước khi chết lão mũi lõ chửi vị chủ soái này mãnh liệt nhất, lời nói tục tĩu hung ác khó có thể tưởng tượng, khiến người nghe xong chỉ muốn xăn tay áo đập lão một trận.
Khang Hùng bật cười, vẻ mặt phức tạp: “Ta trung thành với quốc gia của ta, lão trung thành với Sa Hoàng của lão, ai có chủ nấy mà thôi.”
Nếu như không có chiến tranh, có lẽ mọi người đều là bạn bè, lên núi đi săn không chừng cũng có thể giúp nhau một chút...
Đáng tiếc không có “nếu như“.
Vương Asim gật gật đầu, trầm tư.
Khang Hùng quay sang Tử Kê đang nhìn chằm chằm vào dòng sông suy nghĩ xuất thần, hỏi cùng một vấn đề vừa rồi Vương Asim thắc mắc: “Hận ta không?”
Nếu không phải ông khăng khăng sai người mang lão mũi lõ đến đây, ít nhất lão có thể kéo dài hơi tàn thêm một tháng.
Tử Kê ngồi xổm bên bờ sông, hai mắt đăm đăm, áo bông đen tuyền làm hắn trông như một cây nấm mốc lớn, hồi lâu mới lắc đầu.
Hắn quả thực không biết nên hận ai.
Dường như hận nhất hẳn là bản thân hắn.
Nếu không phải hắn nổi lên ý xấu thì sẽ không bị bắt, nếu không bị bắt thì sẽ không liên lụy ông nội...
Nhưng vì sao ông nội lại rơi vào kết cục này?
Vì sao hắn lại không còn người thân bên cạnh một lần nữa?
Cậu bé mười ba tuổi không thể nào nghĩ ra được.
Khang Hùng ngồi xuống cạnh hắn, giơ tay nhéo nhéo cái gáy gầy đến mức nhô xương: “Về sau đi theo ta thôi.”
Lòng bàn tay thô ráp của ông hơ cổ hắn nóng lên, nóng đến mức khiến Tử Kê run rẩy, sau đó không hiểu sao nước mắt đột nhiên trào ra, bắt đầu rơi lã chã.
Những giọt nước mắt kiềm nén cả ngày đổ xuống như mưa, kèm theo tiếng gào khóc tê tâm liệt phế.
Tử Kê khóc đến mức mắt sưng vù, Khang Hùng chờ hắn khóc xong mới nói: “Ngươi phải học tiếng Hán.”
Tử Kê nấc lên, gật đầu.
Trước kia Tử Kê thường xuyên tới quân doanh bán củi và thú rừng săn được, rất nhiều người đều biết hắn, hiện giờ chính thức lột xác gia nhập danh sách tạp dịch, thực mau hòa nhập vào sinh hoạt tập thể trong doanh trại.
Trải qua mấy tuần trông hắn đã béo hơn hẳn, gương mặt sáng lên niềm hy vọng về tương lai, thỉnh thoảng sẽ hùa theo mọi người cười ngây ngô.
Tuy nhiên hắn vẫn không thể nào học được tiếng Hán trôi chảy, lưỡi hắn giống như trời sinh cong quẹo hơn người Đại Lộc, mỗi khi mở miệng cứ như con rắn đang uốn éo bật lên bật xuống chọc cho mọi người cười ngặt nghẽo, còn hắn thì toát mồ hôi vì cố gắng quá sức.
So với Trung Nguyên có bốn mùa rõ ràng, vùng đất cực bắc này thật quá mức lười biếng, sau khi lập hạ mới õng à õng ẹo tiến vào mùa xuân, không khí ấm áp hơn một chút, dãy núi vốn im lặng trải qua suốt mùa đông nhanh chóng hồi sinh, dường như khoác lên lớp áo xanh chỉ trong một đêm.
Hồng Văn không ngừng bị kinh ngạc trước sự thay đổi hàng ngày của cây cỏ.
Anh chàng bắt đầu thường xuyên theo mọi người vào núi, sau đó nhanh chóng mê mẩn đến hoa mắt bởi các loại dược thảo, nấm và động vật hoang dã lan tràn.
Quá nhiều, dồi dào đến thế, quả thực lấy không hết dùng không cạn!
Hồng Văn dường như hiểu ra vì sao vùng đất này lại “Lười biếng”: Nó tựa như một kẻ ăn chơi trác táng có tổ tông tám đời đều là phú hào, tình hình thực tế là gia đình quá mức giàu có thật khiến người không hề có chí tiến thủ...
Mùa xuân không chỉ khiến con người linh hoạt mà ngay cả món ăn hoang dã trong rừng núi cũng sinh động hơn, thường xuyên từ bụi cỏ cao cao nhảy ra một con thỏ, bay ra vài con gà rừng, tán cây che trời không biết cất giấu bao nhiêu loại chim chóc hót ríu rít.
Sâu trong rừng rậm tràn ngập sức sống tựa như một thế giới khác, biệt lập với thế nhân. Vô số hoa cỏ âm thầm vui vẻ đâm chồi, nở rộ rồi tàn lụi trong một góc không người biết, lặng lẽ hoàn thành vòng luân hồi của sinh mệnh.
Tuy không người xem xét nhưng chúng nó vẫn vui vẻ và thoải mái.
Vốn dĩ vẻ đẹp này không phải để làm hài lòng thiên hạ.
Cứ sau mỗi trận mưa, nấm trong rừng đua nhau trồi lên. Mỗi ngày Khang Hùng đều dẫn quân vào núi huấn luyện, khi trở về thuận đường hái nấm giải quyết sinh kế, một công đôi việc.
Bởi vì nấm quá nhiều, dạo này nhà bếp vô cùng thích thú nấu món đặc sản cho mọi người thưởng thức: Gà rừng hầm nấm, gần như mười ngày hai mươi bữa cơm đều là món này, sáng sớm còn có thể chan canh nấm gà lên bánh bột ngô ăn điểm tâm.
Công bằng mà nói, món này thực sự rất ngon, nấm tươi đúng mùa, gà rừng non được hầm nhừ, nước canh đậm đà thơm ngọt. Ăn một chén vào bụng, toàn thân ba vạn sáu ngàn lỗ chân lông đều cảm thấy thoải mái.
Nhưng cho dù là thịt thiên nga cũng không thể ăn mỗi ngày!
. Khang Hùng lén tới tìm Hồng Văn, nói trong miệng đau quá, ban đêm cũng khô nóng đến mức ngủ không yên.
Hồng Văn bắt mạch cho ông, mạch hoạt, sắc mặt đỏ đậm, môi khô nứt, đại khái đã biết là bệnh gì: “Thúc há mồm để cháu xem ạ.”
Kết quả vừa thấy là đúng bệnh rồi, đầu lưỡi đỏ mọng, trên lưỡi phủ lớp bựa vàng và nhờn, nứu răng xuất hiện vài mụn loét.
“Ăn đồ nóng quá!” Hồng Văn cười nói, “Cháu kê cho thúc vài thang thuốc hạ hỏa, uống hai thang là được. Mấy ngày nay nên ăn những loại rau củ đắng chấm tương, thỉnh thoảng nấu nước kim ngân hoặc bồ công anh uống thanh nhiệt.”
Khang Hùng đằng hắng vài tiếng, hạ giọng hỏi: “Có phải bởi vì cả ngày ăn gà hay không?”
Thật đúng là vậy, Hồng Văn vừa viết phương thuốc vừa giải thích: “Nếu xét ra thì thịt gà tính ấm, là nguyên liệu nấu ăn tương đối bổ dưỡng, tốt cho sức khỏe. Nhưng hiện giờ vào mùa xuân, không khí hanh khô, cơ thể dễ bị nóng nên cần phải áp xuống. Bản thân thúc thuộc loại thể chất dễ sinh hỏa khí, càng thích hợp ăn thịt vịt hay các món ăn có tính hàn, như thế lượng nhiệt trong cơ thể tự nhiên sẽ tiêu đi.”
Khang Hùng vỗ đùi, tức muốn hộc máu: “Ông đây đã bảo bọn nó thay đổi món ăn cho đa dạng, vậy mà chết sống không chịu nghe!”
Hỏa đầu quân trong binh nghiệp chỉ lo nuôi no người ta, nào có mấy người quan tâm đến đổi món đa dạng gì đó!
Hồng Văn cười to, lưu loát viết phương thuốc gồm Xuyên Đại hoàng, Phát tiêu, Cam thảo, lá Bạc hà, tỉ mỉ giải thích công dụng của từng loại cho Khang Hùng nghe.
Khang Hùng vung tay: “Ta cũng không hiểu ba cái này, nghe xong là quên, Hồng Thái y cứ kê đơn là được.”
Hồng Văn nghiêm túc đáp: “Hiểu hay không là chuyện của tướng quân, nói hay không là chuyện của đại phu, hai ta cứ làm việc của mình, không quấy rầy nhau.”
Khang Hùng sửng sốt, lại cười to: “Ha ha ha, nói rất đúng!”
“Nhưng thưa Khang Tướng quân, thúc nên bớt uống rượu, không tốt cho gan đâu ạ.” Hồng Văn khuyên nhủ.
Phương Bắc rét lạnh, khi đánh giặc đặc biệt gian nan, trên dưới trong quân có thói quen dùng rượu mạnh xua cái lạnh, thời gian lâu rồi khó tránh làm gan tổn thương.
Khang Hùng nghe xong, gãi gãi đầu, thành khẩn thú nhận: “Chuyện này hơi khó...”
Hồng Văn cười khuyên: “Sự thành do người, thúc dưỡng thân thể thật tốt mới có thể bảo vệ quốc gia lâu dài.”
Khang Hùng chép miệng: “Thôi thì tận lực vậy.”
Hai người đang nói chuyện, chợt thấy Hồng Nhai đẩy cửa tiến vào, mặt mày hưng phấn: “Mau ra ngoài xem cầu vồng!”
Cầu vồng?
Hồng Văn chạy ra xem xét, tâm thần chấn động.
Đầy trời đều là cầu vồng rực rỡ, kéo dài vạn trượng. Cầu vồng bảy màu sắc thái kỳ diệu, họa sư thế gian không thể nào phối ra được sắc màu như vậy, tựa sương khói, như ráng chiều, giống mưa phùn được gió xuân thổi bay bay, lại giống mảnh lụa dập dềnh trên mặt suối nước trong vắt, lặng lẽ bồng bềnh trên bầu trời cao.
Giống như thiên thần giũ ra tấm màn lụa, lấy trời cao làm nền, ngân hà làm mành, bao trùm khắp thiên địa.
Tất cả mọi người lâm vào trạng thái chấn động mãnh liệt, ngửa đầu ngắm nhìn nói không nên lời.
Thế nhân thường hình dung thợ thủ công có tay nghề cao siêu bằng câu “Khéo tựa tay trời”, nhưng khi thật sự tận mắt chứng kiến cảnh tượng này mới biết “tay trời” có thể tạo ra những thứ kỳ diệu đến độ nào, nhân lực há có thể so bằng?
Tuy Hồng Nhai có kiến thức rộng rãi nhưng thật lâu vẫn chưa lấy lại bình tĩnh, một hồi sau mới cảm khái: “Từ lâu đã nghe nói vùng cực bắc thỉnh thoảng xuất hiện cầu vồng bao trùm trời đất, chỉ mong ước được chứng kiến một lần, hôm nay rốt cuộc mở rộng tầm mắt.”
Hồng Văn cảm thấy đầu óc trống rỗng, tựa như có rất nhiều lời muốn nói, nhưng khi lời sắp ra khỏi miệng lại thầm hận câu từ quá mức nhạt nhẽo yếu ớt, không thể miêu tả nổi cảnh tượng tráng lệ trước mát.
Cuối cùng, thiên ngôn vạn ngữ chỉ đúc thành một câu:
“Đáng tiếc Trưởng công chúa không thấy được!”
**********
Lập hạ trôi qua, đô thành Vọng Yến Đài lại bận rộn nghênh đón mùa yến hội. Thái Hậu thường xuyên triệu tập mệnh phụ và các quý nữ tiến cung trò chuyện và lắng nghe những gì họ thấy ở bên ngoài.
Trưởng công chúa Gia Chân vì tỏ lòng hiếu thảo nên cũng bắt đầu tham dự thường xuyên hơn, song chỉ được vài lần là hứng thú giảm mạnh, miễn cưỡng đến ngồi một chút cho có mặt rồi đi ngay, trở về luôn uể oải không thích làm gì, cứ nhìn chằm chằm vào chiếc làn đan bằng cành liễu treo trên khung cửa sổ mà ngẩn ngơ.
Hôm nay nàng lại rời tiệc sớm, mới vừa vào phòng chính là thấy ngay một chiếc rổ nhỏ xinh xắn đang bằng cành liễu tươi rói đặt ngay ngắn trên bàn, bên trong điểm xuyết những đóa hoa nhiều màu, rất có thú vui thôn dã.
Nàng sửng sốt môt lát, sau đó trong lòng dâng lên một cỗ mừng như điên, khi mở miệng thanh âm hơi phát run: “Đây là ai đưa tới?”
Tiểu cung nữ bên cạnh cầm chổi lông gà phủi bụi, cười nói: “Hồi bẩm Công chúa, là nô tỳ làm, Công chúa thích không ạ?”
Cung nữ này mới được chuyển tới đây năm nay, vô cùng ngưỡng mộ Trưởng công chúa Gia Chân, thấy nàng luôn nhìn chằm chằm cái làn bằng cành khô buồn bực không vui, bèn lặng lẽ quan sát cấu tạo rồi âm thầm đan một cái, muốn cho vị Công chúa này vui vẻ hơn chút.
Cảm giác mừng rỡ mới vừa dâng lên nháy mắt tan biến, như bọt bồ kết nổ bụp dưới ánh mặt trời.
Thanh Nhạn theo sau tiến vào, nghe vậy lập tức biến sắc, đi lên mắng tiểu cung nữ kia: “Ai cho phép ngươi đặt đồ lung tung trong phòng Công chúa?”
Tiểu cung nữ sợ tới mức mặt mày trắng bệch, vội quỳ xuống thỉnh tội: “Nô tỳ đáng chết, nô tỳ...”
“Thôi, ngươi mắng nó làm chi!” Trưởng công chúa Gia Chân xua tay, ỉu xìu nhìn nhìn cái rổ cành liễu kia, tùy tay đặt sang một bên, “Nó cũng có ý tốt.”
Mới vừa rồi thoáng nhìn tưởng giống nhau như đúc, nhưng nhìn lại thì thấy khác xa.
Nói chung, không phải được làm bởi cùng một người.
Thanh Nhạn lúc này mới thôi, cảnh cáo tiểu cung nữ kia vài câu rồi tự mình lại đây rót trà bưng đến cho Trưởng công chúa Gia Chân: “Công chúa đừng phiền não, nô tỳ vừa nghe nói bệ hạ định phái thiên sứ đến đại doanh hướng Đông Bắc, thứ nhất an ủi các tướng sĩ, thứ hai là ngợi khen Tiểu Hồng Thái y. Công chúa xem có thư từ gì muốn gởi kèm hay không, chi bằng viết sớm cho kịp ạ.”
Thiên sứ chính là người đi đến nơi khác truyền chỉ, có thể là thái giám tâm phúc của Hoàng đế, cũng có thể là điểm danh chỉ định và xác nhận thân phận khâm sai, nhiệm vụ là “Sứ giả truyền đạt thánh ý của Thiên tử”, không phải dễ dàng được chọn.
Trưởng công chúa Gia Chân sáng mắt, sau đó lập tức xìu xuống, lười nhác nói: “Không có gì để viết...”
Cho dù viết thư thì thế nào? Tả mấy cũng chẳng tận mắt thấy được, chi bằng không nói.
Nhưng hình như nàng lại nghĩ tới cái gì, đột nhiên ngồi thẳng dậy, gấp gáp hỏi: “Ngươi mới vừa nói, Hoàng huynh muốn phái thiên sứ?”
Thấy nàng rốt cuộc có hứng thú, Thanh Nhạn vội đáp: “Vâng ạ, nói qua mấy ngày sẽ đi, hình như xe ngựa và vật dụng đều chuẩn bị sẵn sàng.”
Đôi mắt của Trưởng công chúa Gia Chân càng lúc càng sáng rực, giống như có ngọn lửa bùng cháy bên trong. Nàng bỗng nhiên nhảy xuống khỏi trường kỷ, chạy vụt ra ngoài nhanh như bay.
“Công chúa đi đâu thế?!” Thanh Nhạn đuổi theo sau.
“Đi tìm Hoàng huynh! Không cần đi theo!” Trưởng công chúa Gia Chân tăng tốc.
Thiên sứ, thiên sứ!
Đúng rồi, sao mình lại không nghĩ ra, sao có thể không nghĩ ra!
Thiên sứ đấy!
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.