Chương 119: Hai năm sau
Tố Tố Tuyết
28/12/2016
Tháng hai, Hồng Đức năm thứ mười một, Liễu Thành, Giang Nam.
Nơi đây xuân về hoa nở, phong cảnh thơ mộng, cơn mưa phùn này đã kéo dài hơn mười ngày, hôm nay vất vả lắm mới hơi ngớt. Ánh sáng mặt trời chiếu vào ngõ nhỏ, hai bên bờ tường được gột rửa tỏa sáng, từng phiến đá lót đường xanh màu rêu phát ra kim quang. Sâu trong ngõ hẻm, phía sau tường viện thấp thoáng ló ra một cây hoa sơn trà, lá xanh mươn mướt, hoa hoa đua nở, rất là bắt mắt.
Một chiếc xe ngựa bình thường chậm rãi đi vào ngõ hẻm, xe ngựa dừng lại, cửa xe được đẩy ra, một thiếu nữ tầm mười tám mười chín tuổi bước xuống.
Nàng tướng mạo xinh đẹp, búi tóc chữ thập, trên mái tóc đen nhánh tóc cài hai chiếc trâm ngọc, lỗ tai đeo một đôi khuyên phỉ thúy, váy áo màu hồng cánh sen thêu lan trắng, bên hông đeo dải lụa tết hình như ý.
Thiếu nữ này sắc mặt trắng nõn, mười ngón tay sạch sẽ mượt mà chưa từng làm việc nặng nhọc, khiến cho người nhìn liền cảm thấy tất nhiên là thiếu phu nhân nhà ai, chỉ là sao bên cạnh vị thiếu phu nhân này cũng không có nha hoàn đi theo hầu hạ, nhưng lại làm cho người ta kỳ quái.
Thiếu nữ xuống xe ngựa, thăm dò nhìn về phía cánh cửa hé mở đằng trước, lúc này mới xoay người, cười nhìn vào trong xe, nói:
“Cô nương, Lưu lão bá có khi lại ra cửa chẩn bệnh rồi, còn để cửa cho cô nương đây.”
Nàng nói xong, một cô nương dáng vóc thon thả, tư thái yểu điệu từ trong xe ngựa khom lưng đi ra. Đôi giày thêu tinh xảo xuất hiện đầu tiên, sau đó là váy áo đỏ tươi sắc thêu hoa hải đường lay động trong không trung, cô nương kia liền nhẹ nhàng đứng bên cạnh xe.
Trên người nàng khoác áo choàng hồng phấn vẽ hoa mai lục ngạc, gió nhẹ thổi qua, càng tôn lên dáng dấp xinh xắn động lòng người, eo thon đầy một nắm tay, nhu mì mà uyển chuyển.
Nữ tử này toàn thân màu đỏ, tựa đóa hồng nở rộ giữa trời xanh tuyết trắng, khiến nơi ngõ nhỏ này thoáng cái thêm mười phần sinh khí.
Cô nương này nhìn bất quá mới mười lăm mười sáu, cực kỳ xinh đẹp. Gương mặt phù dung, sống mũi cao cao, mày phượng mắt hạnh, khi sóng mắt lưu chuyển còn như có như không mang theo một tia phong tình quyến rũ, tôn lên ngũ quan sắc nét, da thịt trắng mịn trong suốt của nàng, quả nhiên là người át cả ánh bình minh, huyết lệ kinh hồng.
Cô nương này xuống xe ngựa, cũng nhìn về phía cánh cửa sâu trong ngõ nhỏ, thấy cánh cửa hé mở, không khỏi gật đầu nhẹ, cười nói:
“Tục ngữ nói hương rượu không sợ ngõ hẻm sâu, như lão bá cũng là tài cao không sợ mai một.”
Nàng nở nụ cười, sáng rỡ như ánh mặt trời, tuy không cố ý hấp dẫn nhưng lại khiến người ta mê mẩn tâm hồn, đôi mắt cong cong tựa như minh châu sáng chói, làm cho người ta không thể dời mắt.
Nữ tử này chính là người đi theo Thái hậu di giá Đông Đô vào năm Hồng Đức thứ chín, nữ chủ nhân hiện tại của phủ Phượng Dương hầu, Thẩm Tuệ An.
Năm đó nàng xử lý xong việc vặt trong Hầu phủ, nhoáng cái đã đến ngày Thái hậu rời kinh. Đúng lúc kinh thành lại vì chuyện Đỗ Mỹ Kha mà nhấc lên một phen sóng to gió lớn, phủ Phượng Dương hầu nhờ gia đình Thẩm Phong lần nữa được chấn chỉnh.
Mẹ con Đỗ Mỹ Kha gây ra đủ loại gièm pha, Tuệ An cùng Quan phủ đính hôn, án oan của Thẩm Thanh được lật lại, tất cả mọi việc đều trở thành đề tài bị nhân sĩ trong kinh đàm tiếu, sau lại vì Tôn Hi Tường cùng Đỗ Mỹ Kha nhận tội mà phủ Phượng Dương hầu bị đẩy lên nơi đầu sóng ngọn gió.
Lúc chuyện Đỗ Mỹ Kha vượt ngục quấy lên sóng to gió lớn, Tuệ An vừa vặn đi theo Thái hậu rời khỏi kinh thành, cũng đồng thời tránh được đủ loại ánh nhìn hiếu kỳ xen lẫn tính kế của người ngoài, bản thân nàng càng không thèm đếm xỉa đến.
Trong suy nghĩ của Tuệ An, Tôn tổng quản Tôn Nhất Thuận phủ Đỗ Thượng thư chẳng qua chỉ là một hạ nhân, có mặt mũi đến đâu cũng chỉ hạn chế trong phủ Thượng thư, ông làm sao có khả năng cứu Đỗ Mỹ Kha từ tử lao ra, vì vậy nàng liền biết mình là bị người tính kế.
Rồi sau đó chuyện lại trùng hợp bị phủ Phượng Dương hầu của nàng biết được, đây càng chứng tỏ là có người phía sau an bài, muốn kéo phủ Phượng Dương hầu vào vũng nước đục trong triều!
Lúc ấy nếu không phải Tuệ An vừa vặn theo Thái hậu rời khỏi kinh thành, ai biết còn có bao nhiêu âm mưu quỷ kế ở phía sau chờ nàng!
Tôn Hi Tường bị đày đi lưu vong, lúc đó Tuệ An ngẫm lại mới biết sau khi Thẩm Thanh qua đời mấy năm, tuy Tôn Hi Tường chiếm giữ vị trí chủ nhân Hầu phủ, nhưng cũng không phải hoàn toàn không có chỗ tốt đối với nàng.
Ít nhất có ông đứng phía trước, những kẻ có rắp tâm khác sẽ không tính kế đến đứa bé như nàng. Tôn Hi Tường mặc dù không có tấm lòng của bậc cha hiền, nhưng rốt cuộc sự hiện hữu của ông đối với nàng mà nói chính là một sự đảm bảo, nếu không, căn bản nàng chẳng thể sống đến khi trưởng thành.
Nghĩ tới những thứ này, hận ý của Tuệ An đối với Tôn Hi Tường ngược lại giảm xuống một chút, nỗi hận này có thể nói theo thời gian trôi qua cũng dần dần tiêu tan, từ lúc Tôn Hi Tường qua đời thì triệt để biến mất.
Đúng vậy, Tôn Hi Tường chết rồi!
Ông chết ở đi trên đường đày đến Lĩnh Nam, chết bởi một trận phong hàn bình thường, cũng chết do túi bạc Tuệ An tặng cho ông.
Năm đó gần đến giờ Tôn Hi Tường xuất hành, Tuệ An gọi Phương mama đưa một túi bạc vụn đến, cũng không phải hoàn toàn có ý xấu, dù sao ông cũng là cha ruột mình, cho dù Tuệ An có hận ông nhường nào, nhưng trong lòng vẫn tồn một tia thương xót.
Nàng sai Phương mama tặng túi bạc kia, để mặc Tôn Hi Tường tự mình quyết định, xem ông có thể nghĩ thông suốt, lại có thể lợi dụng số tiền này hay không.
Nếu như Tôn Hi Tường biết nên sử dụng số bạc kia như thế nào, hoặc nghĩ thông suốt, ông liền nên sớm ngày chủ động lấy ra hối lộ quan sai áp tải, như vậy tối thiểu có thể giúp ông trên đường lưu vong dễ chịu hơn một chút, đến Lĩnh Nam, những quan sai kia cũng sẽ nể tình ông biết điều hiếu kính bọn họ mà thay ông an bài một hai.
Thế nhưng nếu ông luẩn quẩn trong lòng, lòng tham không đáy, vậy thì một túi bạc chính là mầm hoạ bỏng tay!
Sự thật chứng minh, Tôn Hi Tường đến chết cũng không hề tỉnh ngộ.
Tuệ An nhận được tin tức, có lẽ Tôn Hi Tường biết cả đời này cũng khó có khả năng cầm được nhiều bạc như vậy, cho nên dọc theo đường đi ông sống chết cầm chặt túi bạc trong tay, ngay cả buổi tối ngủ cũng không dám nhắm mắt.
Mà những tội phạm cùng lưu vong Lĩnh Nam với ông đều là phạm vào trọng tội, những quan sai áp tải thì càng lăn lộn trong giới đã lâu, túi bạc này Tôn Hi Tường làm sao có thể giữ được, quan sai nhẫn nại ám chỉ đôi câu, Tôn Hi Tường chỉ lấy ra hai đĩnh hòng đuổi bọn họ đi, bọn họ liền sinh lòng chán ghét.
Bởi trong thâm tâm của bọn họ, số bạc này vốn nên là của bọn họ, Tôn Hi Tường sống chết giữ bạc chẳng khác nào đoạt bạc của bọn họ, đoạn đường này bọn họ dĩ nhiên phải chỉnh ông đến chết.
Tôn Hi Tường cứ như vậy, chưa đi đến Túc Châu đã bị hành hạ chỉ còn da bọc xương, một hồi mưa xuân liền nhiễm phong hàn, những quan sai kia đừng nói là mua thuốc cho ông, ngay cả một ngụm nước nóng cũng không cho ông uống, lúc đó ông có lấy ra bạc thì đã muộn.
Tôn Hi Tường ôm bệnh đi hai ngày đường, đêm đó ông bệnh không dậy nổi, thản nhiên mất mạng.
Lúc ấy Tuệ An nghe được tin này, trong lòng thật sự là ngũ vị tạp trần. Tôn Hi Tường mặc dù không phải chết trong tay nàng, nhưng mà cũng chết do túi bạc nàng tặng, cái chết của ông tuy Tuệ An cảm thấy đáng buồn, nhưng lại chưa từng hối hận.
Đây hết thảy đều là Tôn Hi Tường gieo gió gặt bão, huống chi năm đó mẫu thân Thẩm Thanh bị Tôn Hi Tường độc hại, hơn nữa ông còn quả thực nổi ác tâm hủy hoại trong sạch của nàng, mưu hại tính mạng nàng, từ trước tới giờ, Tuệ An vẫn không thừa hơi đi thương xót kẻ thù.
Chỉ có điều mất Tôn Hi Tường, một cô bé mồ côi như Tuệ An cai quản cả phủ Phượng Dương hầu to như vậy, chuyện này tựa như cẩm y dạ hành*, một đứa bé con tay ôm kim bảo đứng ở phố xá sầm uất, cho dù là ai nhìn thấy cũng sẽ động lòng tính kế.
*Ăn mặc bắt mắt mà đi làm chuyện mờ ám, ý chỉ những điều lộ liễu.
Tuy có gia đình Thẩm Phong ở đây, nhưng rốt cuộc bọn họ vẫn không ở kinh thành, mà nàng mặc dù đã đính hôn với Quan Nguyên Hạc, nhưng suy cho cũng vẫn chưa tính lập gia đình, tùy thời cũng có thể gặp chuyện giữa đường.
Cho nên nói năm đó đều là nhờ Thái hậu ban ơn, Tuệ An mới có được một chỗ đứng vững chắc, đây mới là lý do lớn nhất giúp nàng giữ được Hầu phủ.
Thái hậu chỉ sợ cũng là vì những nguyên nhân này, nên mới khước từ huyết mạch chính thống nhữ Văn Cảnh Ngọc, lại đặc biệt chọn nàng theo đến Đông Đô.
Mà hai năm qua, Tuệ An ấn theo kiếp trước mà suy tính, tìm được Lưu lão bá chuyên trị bệnh cho ngựa, mỗi lần rời Đông Đô đến Liễu Thành đều đi theo Lưu lão bá học tập thuật chữa bệnh cho ngựa, Thái hậu cũng chưa bao giờ hỏi tới, đối với nàng rất là bao dung.
Khoàng giữa tháng trước, Tuệ An ở trong hoàng cung Đông Đô cử hành lễ cập kê, Thái hậu còn mời lão thái quân của Lữ gia cùng Vương gia là hai thế gia lâu đời tiến cung xem lễ, lại tự mình cài trâm cho nàng.
Hai năm qua Thái hậu một mực yêu thương nàng, phần thể diện này, trong lòng Tuệ An tràn đầy cảm động. Chỉ là Thái hậu thân phận quý trọng, dù Tuệ An có lòng nhưng cũng vô lực hồi báo.
Cho nên ngoại trừ càng thêm dụng tâm chăm sóc sức khỏe Thái hậu, trong lòng nàng còn âm thầm thề, nhất định sẽ không khiến Thái hậu thất vọng, nhất định phải sống thật tốt, tương lai phàm là phủ Định Bắc vương cần nàng giúp đỡ, nàng chắc chắn tận lực báo đáp.
Những chuyện này không cần quá đề cập tới, lại nói tới hiện tại, Tuệ An đẩy ra cánh cửa nhà Lưu lão bá, nhìn vào tiểu viện mộc mạc, trong lòng liền dâng lên một hồi xúc động.
E rằng đây chính là lần cuối cùng nàng đến thăm nơi này…
Năm trước Quan phủ ở kinh thành đưa tin tới, hôn kỳ của Tuệ An và Quan Nguyên Hạc đã được định ra, là ngày mười lăm tháng sáu năm nay.
Từ lúc hôn kỳ định ra, Đồng thị liền vội vã về kinh, trấn giữ phủ Phượng Dương hầu, chuẩn bị của hồi môn cho Tuệ An, sắp xếp việc vặt, hôm nay mới đầu tháng hai, Đồng thị đã mấy lần gửi thư đến Đông Đô, liên tục thúc giục Tuệ An hồi kinh.
Tuệ An mặc dù lưu luyến Liễu Thành chất phác thanh tịnh, nhàn nhã tự tại, nhưng rốt cuộc không địch nổi ý chí của Đồng thị, đã hồi âm nói sắp sửa lên đường, lần này đến đây là muốn nói lời từ biệt với Lưu lão bá.
Nghĩ tới đây, Tuệ An nhìn tiểu viện, trên mặt không khỏi mang theo vài phần tiếc nuối cùng thương cảm đến, Hạ Nhi ở một bên khuyên nàng:
“Liễu Thành cách Đông Đô gần như vậy, Quan phủ lại có biệt viện ở Đông Đô, tương lai cô nương muốn đến Đông Đô cũng không khó. Đi Liễu Thành mất nhiều nhất chỉ có nửa ngày đường, tất nhiên là có cơ hội.”
Tuệ An nghe vậy gật đầu, lúc này mới cất bước vào sân nhỏ, viện của Lưu lão bá viện không lớn lắm, phu nhân ông mất sớm, ba con trai đều tự xây nhà. Lưu lão bá không muốn làm phiền con trai, liền một mình ở lại nơi này.
Sân nhỏ chỉ có bốn gian nhà ngói, trong đó có hai gian chính phòng dùng làm phòng khách, mà phía đông sân nhỏ xây một căn nhà riêng, phía tây làm phòng bếp, mặt đông là nhà kho cùng phòng chứa củi.
Cửa nhà kho hơi khép, từ bên ngoài có thể nhìn thấy chất đống ở góc tường là thùng nước, đòn gánh, xẻng cuốc các loại. Tuệ An trực tiếp đi tới, đẩy cửa nhìn vào, sắp xếp lại dược liệu ngổn ngang bên trong.
Hạ Nhi cũng giúp một tay, còn chưa thu thập chỉnh tề, đã nghe bên ngoài sân nhỏ truyền tới một tiếng thét to:
“Cho hỏi Lưu lão có nhà không? Cứu mạng! Con ngựa nhà ta không hiểu sao lại bất động, ông mau qua xem cho ta đi.”
Đó là giọng của một lão hán, ngữ điệu mang theo lo lắng, Tuệ An nghe vậy gấp rút bước nhanh ra ngoài, đã thấy một ông lão mái đầu hoa râm dắt theo một con ngựa thể trạng thấp bé đang đứng trong lo lắng sân ngó dáo dác xung quanh.
Ông thấy Tuệ An cùng Hạ Nhi lần lượt đi ra, thoáng cái sững sờ.
“Lão bá, ngựa của ông bị sao vậy, để ta xem một chút.”
Tuệ An nói xong đã đi tới, bên môi mang theo ý cười ôn hòa. Lúc này lão hán kia mới giật mình tỉnh lại, hồ nghi liếc Tuệ An, lầm bầm một tiếng:
“Chớ không phải là Hồ tiên*… “
*Hồ tiên: Người xưa cho rằng hồ ly tu luyện có thể thành tiên. Tục truyền rằng, loài cáo có tài cám dỗ con người, cho nên những người con gái làm cho lòng người say đắm thường được nói là hồ mị.
Giọng ông tuy không lớn, nhưng Tuệ An và Hạ Nhi đều nghe được, Tuệ An gặp Hạ Nhi muốn nói liền nhìn nàng một cái, lúc này mới cười với lão hán:
“Lão bá, ban ngày ban mặt lấy đâu ra Hồ tiên, ta lớn như vậy còn chưa được tận mắt trông thấy Hồ tiên bao giờ, nếu có lão nhớ gọi ta xem nữa đấy?”
Hạ Nhi thấy Tuệ An không tức giận, ngược lại cũng nở nụ cười, nàng nhìn Tuệ An vì vui vẻ mà trên mặt càng lộ nét quyến rũ, thầm kêu một tiếng, khó trách lão bá này nghĩ cô nương nhà mình là Hồ tiên.
Một sân viện cũ nát thế này, tự dưng nhảy ra một cô nương tướng mạo bất phàm, xiêm y quý giá, không ngạc nhiên mới là lạ.
Tuệ An nói xong, lão bá kia mới phát giác ra mình thất thố, ông nhìn Tuệ An bận cười thành tiếng, sau đó lại kinh ngạc nhìn quanh, nói:
“Cô nương, đây có phải nhà thú y Lưu lão?”
Lưu lão bá tên gọi Lưu Tam Đức, là thú y nổi tiếng khắp mấy trăm dặm Liễu Thành này, mặc dù ông không mở y quán xem bệnh, nhưng bình thường ai có việc đều trực tiếp đến tìm ông qua nhà chữa trị cho động vật trong nhà.
Năm đó Tuệ An đến Liễu Thành tới tìm người, còn không phí bao nhiêu công phu, hỏi thăm hai lượt đã tìm thấy người.
Hai năm qua Tuệ An đi theo Lưu lão bá học chữa bệnh cho ngựa, cũng thường xuyên gặp người dẫn ngựa đến chẩm bệnh, cho nên thấy lão bá này dắt ngựa đi đến, Lưu lão bá lại trùng hợp không có ở đây, Tuệ An liền thay ông tiếp đón.
Nàng nghe lão bá hỏi nhưng lại không đáp, chỉ cẩn thận xem xét con ngựa ông dắt theo.
Con ngựa kia nhìn xác thực không tốt, tinh thần ủ dột, uể oải cúi đầu, đứng mà nghiêng ngả lảo đảo, hai vó trước xoạc ra hai bên, chân sau đạp đạp.
Tuệ An liếc nhìn, liền xoay người rút ra roi ngựa bên hông Hạ Nhi, dùng sức quất một roi lên mình con ngựa kia. Đã thấy con ngựa hành động cực kỳ khó khăn, chân bước khẩn trương, da thịt rung động.
Nàng vung một roi xuống, dọa lão bá kia sợ hết hồn, sững sờ một lúc liền tối mặt, tiến lên ngăn cản trước người nàng, bảo vẹ con ngựa kia ở sau lưng, trợn con nhìn chằm chằm Tuệ An, phẫn nộ nói:
“Tiểu nha đầu nhà ngươi làm cái gì thế! Con ngựa này chính sinh mạng của ông già ta, nếu nó xảy ra chuyện chẳng lành, ta và ngươi đều không xong đâu!”
Tuệ An coi như không nghe thấy, cười nói:
“Lão bá, ngựa này của ông là bị viêm vó, chỉ là tổn thương nho nhỏ, không có chuyện gì lớn.”
Lão bá nghe vậy sững sờ, sau đó mới hồ nghi nhìn Tuệ An, vẻ mặt không tin tưởng nói:
“Tiểu nha đầu lừa gạt ta đấy à, ngươi biết xem bệnh cho ngựa?”
“Lão bá, ta là đồ đệ của Lưu lão, tự nhiên sẽ biết xem bệnh cho ngựa. Ngựa này của ông chỉ cần trích máu nhiễm khuẩn, ta lại lấy cho nó hai thang thuốc, trở về để nó uống liền vô sự.”
Tuệ An nói xong liền phân phó Hạ Nhi mang hòm thuốc của nàng đến. Một lát sau, Hạ Nhi mở rương gỗ, lấy dao găm ra, lão bá nhưng lại sống chết không cho phép hai người Tuệ An đến gần ngựa của mình.
Tuệ An cũng không nói nhiều, chỉ quay đầu gọi Hạ Nhi:
“Lấy một nén vàng ra đây.”
Đợi Hạ Nhi từ trong túi lấy ra một nén vàng ròng, Tuệ An cầm lấy, cười nói với lão bá kia:
“Lão bá, ngựa này ta chưa cho ông, nếu như chữa khỏi, ta không lấy một xu, nếu nó chẳng may có làm sao, nén vàng này tính là ta bồi thường, ông thấy thế nào?”
Lão bá đời này chưa từng thấy qua vàng ròng, nghe vậy nhìn chằm chằm nén vàng trong tay Tuệ An, trong lòng thầm tính toán.
Ngựa của Đại Huy vẫn luôn khan hiếm, cho nên giá bán rất đắt, một con ngựa trưởng thành có thể bán được ba bốn mươi lượng bạc, con ngựa này của ông mặc dù không phải quá trưởng thành, nhưng thể trạng cùng màu lông rất tốt, bán đi cũng phải được năm sáu mươi lượng bạc.
Mà nén vàng này nhìn thế nào cũng hơn mười hai hoa, có thể đổi được tám mươi lượng bạc trắng, tám mươi lượng bạc trắng có thể mua được đến hai con ngựa tốt ấy chứ.
Lão bá nghĩ tới đây, biết vụ làm ăn này chỉ lợi không hại, lúc này liền nói:
“Tiểu cô nương nói thật?”
Tuệ An gật đầu, lão bá mới vui vẻ dịch người, Tuệ An liền lấy cây ngân châm dài chừng hai ngón tay châm vào hai huyệt Thiên Môn, Phục Thổ của con ngựa, con ngựa mềm nhũn ngã trên mặt đất, Tuệ An cười liếc nhìn lão bá mặt đầy khẩn trương, nói:
“Ngựa này có phải hai hôm nay biếng ăn, còn hô hấp dồn dập, tinh thần uể oải hay không?”
Lão bá thấy Tuệ An nói đúng, không khỏi giật mình, gật đầu nhẹ, nói:
“Con ngựa này là bảo bối của cả nhà ta, để mua nó ta còn phải vay mượn khắp nơi, từ lúc mua về liền không dám để nó ăn cỏ khô, uống nước lạnh, hầu hạ mọi bề, nhưng vẫn sinh bệnh, hai ngày nay cái gì nó cũng không ăn, khiến ta đây đều ăn không ngon ngủ không yên vì nó.”
Tuệ An nghe vậy cười một tiếng, lại nói:
“Trong nhà lão bá có con trai ư?”
Lão bá nghe Tuệ An hỏi như vậy, cười một tiếng, nói:
“Chỉ có duy nhất một đứa con trai, là tâm can của lão Trịnh ta đây. Năm nay thẳng bé mới vừa hai bốn, vẫn chưa làm mối được nhà nào! Sắp tới triều đình sẽ dàn quân Bắc chinh, muốn để thằng con trai nhà ta không bị gọi đi lính, lão Trịnh ta cho dù đập nồi bán sắt cũng phải làm.
Thế là đành cắn răng vay mượn lung tung mua con ngựa này, đây chính là con ngựa đầu tiên trong thôn ta! Từ lúc nhà ta mua nó, mấy tiểu cô nương trong thôn đều ngày ngày kiếm cớ đến nhà ta đây, bà mối chỉ kém không đạp nát ngưỡng cửa nhà ta làm mối, haha.”
Hạ Nhi nghe vậy cả cười, che miệng nói:
“Vậy thì lão bá ông mau cưới con dâu thôi!”
Tuệ An nghe hai người hàn huyên, lão bá mặt mày hớn hở nói con trai mình được hoan nghênh thế nào, không khỏi cũng cười theo.
Đại Huy vốn thiếu ngựa, bởi vì sắp khai chiến cùng Bắc Hồ, hai năm qua ngựa chuyên dụng trong quân đội ngày càng không đủ.
Triều đình ban bố Phục Mã sách, gia đình dân chúng phàm là nuôi một con ngựa thì có thể bớt một suất đi lính, con trai của lão bá này tất nhiên khỏi cần bị gọi nhập ngũ ra chiến trường, các cô nương trong thôn sao không vội vàng gả vào cửa cho được.
Lão bá kia vừa nói xong, Tuệ An đã dùng lưỡi dao găm gõ vào vó ngựa, con ngựa bị đau khẽ hí một tiếng, lão bá lập tức liền nhìn qua. Tuệ An liền nói:
“Không có việc gì, lão bá sờ chân nó đi, rất nóng, đây là bị sưng phù bên trong.”
Tuệ An vừa nói vừa dùng lưỡi dao rạch một vết thương nhỏ trên vó ngựa, nhất thời máu liền chảy ra, lão bá kia cả kinh, Tuệ An lại nói:
“Đổ máu mới bớt nóng, lão bá yên tâm đi, ngựa này của ông chảy càng nhiều máu thì càng nhanh khỏi bệnh.”
Nàng nói xong nhìn về phía Hạ Nhi:
“Mang một ít vải bông đến đây, lại bưng thêm một chậu nước lạnh.”
Hạ Nhi lên tiếng mà đi, Tuệ An lại trấn an lão bá:
“Lão bá, ngựa này của ông là chăm sóc tốt quá, nên mới nuôi ra ngoài bệnh. Ông chỉ cho nó ăn cỏ tươi thì không được, không chỉ lãng phí, hơn nữa còn dễ dàng sinh bệnh viêm vó này, hơn nữa ông còn không để nó làm việc, nó ít hoạt động, điều này cũng dễ dàng sinh viêm vó. Còn nữa, ngựa này phải thường xuyên sửa vó mới tốt, sửa vó rất đơn giản, ông nhìn đi, chỉ cần như vậy… “
Tuệ An nhanh chóng chuyển động cổ tay, lay lay lần lượt bốn vó ngựa, lão bá thấy máu dọc theo vó ngựa không ngừng chảy ra bên ngoài, trong lòng vốn hơi căng thẳng, nay nhìn con ngựa kia quả thật tinh thần sáng sủa không ít liền tin Tuệ An, vội vàng nghiêm túc nhìn nàng làm, thỉnh thoảng hỏi đôi câu.
Tuệ An sửa xong bốn vó, Hạ Nhi cũng bưng nước lạnh trở lại, Tuệ An cầm vải bông nhúng vào nước lạnh, quấn kỹ bốn vó. Xong xuôi mới đứng dậy, lại quay qua dặn dò lão bá:
“Nếu lão bá ngại sửa vó phiền toái, không bằng đi làm cho nó cái vó sắt, không tốn bao nhiêu tiền đâu.”
Hạ Nhi đỡ Tuệ An dậy, gấp rút mang nước ấm tới, Tuệ An rửa sạch tay, lại nói tiếp:
“Ngựa này của ông còn có chút tổn thương, không nghiêm trọng, ta châm cho nó thêm hai châm, trở về ông đừng cho nó ăn quá nhiều, đợi hai ngày thì tốt rồi. Mặt khác, bệnh viêm vó này còn phải dùng chút thuốc đắp, cũng không cần rườm rà, ta nói lão bá nhớ kỹ là được. Nếu ngày sau nó lại như vậy, ông cũng không cần lại đến đây một chuyến.”
Lão bá kia thấy con ngựa giãy giụa muốn đứng lên, nhìn hai mắt sáng rỡ, gấp rút gật đầu, lúc này Tuệ An mới chậm rãi nói:
“Phương thuốc này là, hồng hoa, đương quy, chỉ xác, hậu phác, trần bì, thần khúc, sơn tra, mạch nha, cát cánh, hoàng dược tử, bạch dược tử, cam thảo, mỗi thứ sáu tiền, nếu chân nó lại bị nóng, vậy thì một ngày rót ba lượt thuốc nước, nếu tinh thần còn tốt, dùng vải bông ngâm vào thuốc này bọc ở quanh chân liền có thể thấy được hiệu quả.”
Lão bá gật đầu liên tục, đang nói chuyện thì cửa bị đẩy ra, một lão bá khác tuổi tầm sáu mươi, người mặc áo vải đi đến, ông chính là sư phụ của Tuệ An, Lưu lão.
Lưu Tam Đức trở lại, mà phía sau ông còn đi theo một người, người nọ mặc trường bào xanh ngọc, cổ áo thêu hoa văn đằng vân, đeo đai lưng khảm ngọc, bên eo thắt túi thơm, mang theo Hương cầu chạm rỗng, đôi mắt hoa đào nhìn thấy Tuệ An liền cười thành hình trăng rằm, chính là Tiền Nhã Khanh.
Tuệ An nhìn thấy hắn lại đi theo sau lưng Lưu lão, kinh ngạc nhíu mày, nói:
“Sao ngài lại ở chỗ này?”
Nơi đây xuân về hoa nở, phong cảnh thơ mộng, cơn mưa phùn này đã kéo dài hơn mười ngày, hôm nay vất vả lắm mới hơi ngớt. Ánh sáng mặt trời chiếu vào ngõ nhỏ, hai bên bờ tường được gột rửa tỏa sáng, từng phiến đá lót đường xanh màu rêu phát ra kim quang. Sâu trong ngõ hẻm, phía sau tường viện thấp thoáng ló ra một cây hoa sơn trà, lá xanh mươn mướt, hoa hoa đua nở, rất là bắt mắt.
Một chiếc xe ngựa bình thường chậm rãi đi vào ngõ hẻm, xe ngựa dừng lại, cửa xe được đẩy ra, một thiếu nữ tầm mười tám mười chín tuổi bước xuống.
Nàng tướng mạo xinh đẹp, búi tóc chữ thập, trên mái tóc đen nhánh tóc cài hai chiếc trâm ngọc, lỗ tai đeo một đôi khuyên phỉ thúy, váy áo màu hồng cánh sen thêu lan trắng, bên hông đeo dải lụa tết hình như ý.
Thiếu nữ này sắc mặt trắng nõn, mười ngón tay sạch sẽ mượt mà chưa từng làm việc nặng nhọc, khiến cho người nhìn liền cảm thấy tất nhiên là thiếu phu nhân nhà ai, chỉ là sao bên cạnh vị thiếu phu nhân này cũng không có nha hoàn đi theo hầu hạ, nhưng lại làm cho người ta kỳ quái.
Thiếu nữ xuống xe ngựa, thăm dò nhìn về phía cánh cửa hé mở đằng trước, lúc này mới xoay người, cười nhìn vào trong xe, nói:
“Cô nương, Lưu lão bá có khi lại ra cửa chẩn bệnh rồi, còn để cửa cho cô nương đây.”
Nàng nói xong, một cô nương dáng vóc thon thả, tư thái yểu điệu từ trong xe ngựa khom lưng đi ra. Đôi giày thêu tinh xảo xuất hiện đầu tiên, sau đó là váy áo đỏ tươi sắc thêu hoa hải đường lay động trong không trung, cô nương kia liền nhẹ nhàng đứng bên cạnh xe.
Trên người nàng khoác áo choàng hồng phấn vẽ hoa mai lục ngạc, gió nhẹ thổi qua, càng tôn lên dáng dấp xinh xắn động lòng người, eo thon đầy một nắm tay, nhu mì mà uyển chuyển.
Nữ tử này toàn thân màu đỏ, tựa đóa hồng nở rộ giữa trời xanh tuyết trắng, khiến nơi ngõ nhỏ này thoáng cái thêm mười phần sinh khí.
Cô nương này nhìn bất quá mới mười lăm mười sáu, cực kỳ xinh đẹp. Gương mặt phù dung, sống mũi cao cao, mày phượng mắt hạnh, khi sóng mắt lưu chuyển còn như có như không mang theo một tia phong tình quyến rũ, tôn lên ngũ quan sắc nét, da thịt trắng mịn trong suốt của nàng, quả nhiên là người át cả ánh bình minh, huyết lệ kinh hồng.
Cô nương này xuống xe ngựa, cũng nhìn về phía cánh cửa sâu trong ngõ nhỏ, thấy cánh cửa hé mở, không khỏi gật đầu nhẹ, cười nói:
“Tục ngữ nói hương rượu không sợ ngõ hẻm sâu, như lão bá cũng là tài cao không sợ mai một.”
Nàng nở nụ cười, sáng rỡ như ánh mặt trời, tuy không cố ý hấp dẫn nhưng lại khiến người ta mê mẩn tâm hồn, đôi mắt cong cong tựa như minh châu sáng chói, làm cho người ta không thể dời mắt.
Nữ tử này chính là người đi theo Thái hậu di giá Đông Đô vào năm Hồng Đức thứ chín, nữ chủ nhân hiện tại của phủ Phượng Dương hầu, Thẩm Tuệ An.
Năm đó nàng xử lý xong việc vặt trong Hầu phủ, nhoáng cái đã đến ngày Thái hậu rời kinh. Đúng lúc kinh thành lại vì chuyện Đỗ Mỹ Kha mà nhấc lên một phen sóng to gió lớn, phủ Phượng Dương hầu nhờ gia đình Thẩm Phong lần nữa được chấn chỉnh.
Mẹ con Đỗ Mỹ Kha gây ra đủ loại gièm pha, Tuệ An cùng Quan phủ đính hôn, án oan của Thẩm Thanh được lật lại, tất cả mọi việc đều trở thành đề tài bị nhân sĩ trong kinh đàm tiếu, sau lại vì Tôn Hi Tường cùng Đỗ Mỹ Kha nhận tội mà phủ Phượng Dương hầu bị đẩy lên nơi đầu sóng ngọn gió.
Lúc chuyện Đỗ Mỹ Kha vượt ngục quấy lên sóng to gió lớn, Tuệ An vừa vặn đi theo Thái hậu rời khỏi kinh thành, cũng đồng thời tránh được đủ loại ánh nhìn hiếu kỳ xen lẫn tính kế của người ngoài, bản thân nàng càng không thèm đếm xỉa đến.
Trong suy nghĩ của Tuệ An, Tôn tổng quản Tôn Nhất Thuận phủ Đỗ Thượng thư chẳng qua chỉ là một hạ nhân, có mặt mũi đến đâu cũng chỉ hạn chế trong phủ Thượng thư, ông làm sao có khả năng cứu Đỗ Mỹ Kha từ tử lao ra, vì vậy nàng liền biết mình là bị người tính kế.
Rồi sau đó chuyện lại trùng hợp bị phủ Phượng Dương hầu của nàng biết được, đây càng chứng tỏ là có người phía sau an bài, muốn kéo phủ Phượng Dương hầu vào vũng nước đục trong triều!
Lúc ấy nếu không phải Tuệ An vừa vặn theo Thái hậu rời khỏi kinh thành, ai biết còn có bao nhiêu âm mưu quỷ kế ở phía sau chờ nàng!
Tôn Hi Tường bị đày đi lưu vong, lúc đó Tuệ An ngẫm lại mới biết sau khi Thẩm Thanh qua đời mấy năm, tuy Tôn Hi Tường chiếm giữ vị trí chủ nhân Hầu phủ, nhưng cũng không phải hoàn toàn không có chỗ tốt đối với nàng.
Ít nhất có ông đứng phía trước, những kẻ có rắp tâm khác sẽ không tính kế đến đứa bé như nàng. Tôn Hi Tường mặc dù không có tấm lòng của bậc cha hiền, nhưng rốt cuộc sự hiện hữu của ông đối với nàng mà nói chính là một sự đảm bảo, nếu không, căn bản nàng chẳng thể sống đến khi trưởng thành.
Nghĩ tới những thứ này, hận ý của Tuệ An đối với Tôn Hi Tường ngược lại giảm xuống một chút, nỗi hận này có thể nói theo thời gian trôi qua cũng dần dần tiêu tan, từ lúc Tôn Hi Tường qua đời thì triệt để biến mất.
Đúng vậy, Tôn Hi Tường chết rồi!
Ông chết ở đi trên đường đày đến Lĩnh Nam, chết bởi một trận phong hàn bình thường, cũng chết do túi bạc Tuệ An tặng cho ông.
Năm đó gần đến giờ Tôn Hi Tường xuất hành, Tuệ An gọi Phương mama đưa một túi bạc vụn đến, cũng không phải hoàn toàn có ý xấu, dù sao ông cũng là cha ruột mình, cho dù Tuệ An có hận ông nhường nào, nhưng trong lòng vẫn tồn một tia thương xót.
Nàng sai Phương mama tặng túi bạc kia, để mặc Tôn Hi Tường tự mình quyết định, xem ông có thể nghĩ thông suốt, lại có thể lợi dụng số tiền này hay không.
Nếu như Tôn Hi Tường biết nên sử dụng số bạc kia như thế nào, hoặc nghĩ thông suốt, ông liền nên sớm ngày chủ động lấy ra hối lộ quan sai áp tải, như vậy tối thiểu có thể giúp ông trên đường lưu vong dễ chịu hơn một chút, đến Lĩnh Nam, những quan sai kia cũng sẽ nể tình ông biết điều hiếu kính bọn họ mà thay ông an bài một hai.
Thế nhưng nếu ông luẩn quẩn trong lòng, lòng tham không đáy, vậy thì một túi bạc chính là mầm hoạ bỏng tay!
Sự thật chứng minh, Tôn Hi Tường đến chết cũng không hề tỉnh ngộ.
Tuệ An nhận được tin tức, có lẽ Tôn Hi Tường biết cả đời này cũng khó có khả năng cầm được nhiều bạc như vậy, cho nên dọc theo đường đi ông sống chết cầm chặt túi bạc trong tay, ngay cả buổi tối ngủ cũng không dám nhắm mắt.
Mà những tội phạm cùng lưu vong Lĩnh Nam với ông đều là phạm vào trọng tội, những quan sai áp tải thì càng lăn lộn trong giới đã lâu, túi bạc này Tôn Hi Tường làm sao có thể giữ được, quan sai nhẫn nại ám chỉ đôi câu, Tôn Hi Tường chỉ lấy ra hai đĩnh hòng đuổi bọn họ đi, bọn họ liền sinh lòng chán ghét.
Bởi trong thâm tâm của bọn họ, số bạc này vốn nên là của bọn họ, Tôn Hi Tường sống chết giữ bạc chẳng khác nào đoạt bạc của bọn họ, đoạn đường này bọn họ dĩ nhiên phải chỉnh ông đến chết.
Tôn Hi Tường cứ như vậy, chưa đi đến Túc Châu đã bị hành hạ chỉ còn da bọc xương, một hồi mưa xuân liền nhiễm phong hàn, những quan sai kia đừng nói là mua thuốc cho ông, ngay cả một ngụm nước nóng cũng không cho ông uống, lúc đó ông có lấy ra bạc thì đã muộn.
Tôn Hi Tường ôm bệnh đi hai ngày đường, đêm đó ông bệnh không dậy nổi, thản nhiên mất mạng.
Lúc ấy Tuệ An nghe được tin này, trong lòng thật sự là ngũ vị tạp trần. Tôn Hi Tường mặc dù không phải chết trong tay nàng, nhưng mà cũng chết do túi bạc nàng tặng, cái chết của ông tuy Tuệ An cảm thấy đáng buồn, nhưng lại chưa từng hối hận.
Đây hết thảy đều là Tôn Hi Tường gieo gió gặt bão, huống chi năm đó mẫu thân Thẩm Thanh bị Tôn Hi Tường độc hại, hơn nữa ông còn quả thực nổi ác tâm hủy hoại trong sạch của nàng, mưu hại tính mạng nàng, từ trước tới giờ, Tuệ An vẫn không thừa hơi đi thương xót kẻ thù.
Chỉ có điều mất Tôn Hi Tường, một cô bé mồ côi như Tuệ An cai quản cả phủ Phượng Dương hầu to như vậy, chuyện này tựa như cẩm y dạ hành*, một đứa bé con tay ôm kim bảo đứng ở phố xá sầm uất, cho dù là ai nhìn thấy cũng sẽ động lòng tính kế.
*Ăn mặc bắt mắt mà đi làm chuyện mờ ám, ý chỉ những điều lộ liễu.
Tuy có gia đình Thẩm Phong ở đây, nhưng rốt cuộc bọn họ vẫn không ở kinh thành, mà nàng mặc dù đã đính hôn với Quan Nguyên Hạc, nhưng suy cho cũng vẫn chưa tính lập gia đình, tùy thời cũng có thể gặp chuyện giữa đường.
Cho nên nói năm đó đều là nhờ Thái hậu ban ơn, Tuệ An mới có được một chỗ đứng vững chắc, đây mới là lý do lớn nhất giúp nàng giữ được Hầu phủ.
Thái hậu chỉ sợ cũng là vì những nguyên nhân này, nên mới khước từ huyết mạch chính thống nhữ Văn Cảnh Ngọc, lại đặc biệt chọn nàng theo đến Đông Đô.
Mà hai năm qua, Tuệ An ấn theo kiếp trước mà suy tính, tìm được Lưu lão bá chuyên trị bệnh cho ngựa, mỗi lần rời Đông Đô đến Liễu Thành đều đi theo Lưu lão bá học tập thuật chữa bệnh cho ngựa, Thái hậu cũng chưa bao giờ hỏi tới, đối với nàng rất là bao dung.
Khoàng giữa tháng trước, Tuệ An ở trong hoàng cung Đông Đô cử hành lễ cập kê, Thái hậu còn mời lão thái quân của Lữ gia cùng Vương gia là hai thế gia lâu đời tiến cung xem lễ, lại tự mình cài trâm cho nàng.
Hai năm qua Thái hậu một mực yêu thương nàng, phần thể diện này, trong lòng Tuệ An tràn đầy cảm động. Chỉ là Thái hậu thân phận quý trọng, dù Tuệ An có lòng nhưng cũng vô lực hồi báo.
Cho nên ngoại trừ càng thêm dụng tâm chăm sóc sức khỏe Thái hậu, trong lòng nàng còn âm thầm thề, nhất định sẽ không khiến Thái hậu thất vọng, nhất định phải sống thật tốt, tương lai phàm là phủ Định Bắc vương cần nàng giúp đỡ, nàng chắc chắn tận lực báo đáp.
Những chuyện này không cần quá đề cập tới, lại nói tới hiện tại, Tuệ An đẩy ra cánh cửa nhà Lưu lão bá, nhìn vào tiểu viện mộc mạc, trong lòng liền dâng lên một hồi xúc động.
E rằng đây chính là lần cuối cùng nàng đến thăm nơi này…
Năm trước Quan phủ ở kinh thành đưa tin tới, hôn kỳ của Tuệ An và Quan Nguyên Hạc đã được định ra, là ngày mười lăm tháng sáu năm nay.
Từ lúc hôn kỳ định ra, Đồng thị liền vội vã về kinh, trấn giữ phủ Phượng Dương hầu, chuẩn bị của hồi môn cho Tuệ An, sắp xếp việc vặt, hôm nay mới đầu tháng hai, Đồng thị đã mấy lần gửi thư đến Đông Đô, liên tục thúc giục Tuệ An hồi kinh.
Tuệ An mặc dù lưu luyến Liễu Thành chất phác thanh tịnh, nhàn nhã tự tại, nhưng rốt cuộc không địch nổi ý chí của Đồng thị, đã hồi âm nói sắp sửa lên đường, lần này đến đây là muốn nói lời từ biệt với Lưu lão bá.
Nghĩ tới đây, Tuệ An nhìn tiểu viện, trên mặt không khỏi mang theo vài phần tiếc nuối cùng thương cảm đến, Hạ Nhi ở một bên khuyên nàng:
“Liễu Thành cách Đông Đô gần như vậy, Quan phủ lại có biệt viện ở Đông Đô, tương lai cô nương muốn đến Đông Đô cũng không khó. Đi Liễu Thành mất nhiều nhất chỉ có nửa ngày đường, tất nhiên là có cơ hội.”
Tuệ An nghe vậy gật đầu, lúc này mới cất bước vào sân nhỏ, viện của Lưu lão bá viện không lớn lắm, phu nhân ông mất sớm, ba con trai đều tự xây nhà. Lưu lão bá không muốn làm phiền con trai, liền một mình ở lại nơi này.
Sân nhỏ chỉ có bốn gian nhà ngói, trong đó có hai gian chính phòng dùng làm phòng khách, mà phía đông sân nhỏ xây một căn nhà riêng, phía tây làm phòng bếp, mặt đông là nhà kho cùng phòng chứa củi.
Cửa nhà kho hơi khép, từ bên ngoài có thể nhìn thấy chất đống ở góc tường là thùng nước, đòn gánh, xẻng cuốc các loại. Tuệ An trực tiếp đi tới, đẩy cửa nhìn vào, sắp xếp lại dược liệu ngổn ngang bên trong.
Hạ Nhi cũng giúp một tay, còn chưa thu thập chỉnh tề, đã nghe bên ngoài sân nhỏ truyền tới một tiếng thét to:
“Cho hỏi Lưu lão có nhà không? Cứu mạng! Con ngựa nhà ta không hiểu sao lại bất động, ông mau qua xem cho ta đi.”
Đó là giọng của một lão hán, ngữ điệu mang theo lo lắng, Tuệ An nghe vậy gấp rút bước nhanh ra ngoài, đã thấy một ông lão mái đầu hoa râm dắt theo một con ngựa thể trạng thấp bé đang đứng trong lo lắng sân ngó dáo dác xung quanh.
Ông thấy Tuệ An cùng Hạ Nhi lần lượt đi ra, thoáng cái sững sờ.
“Lão bá, ngựa của ông bị sao vậy, để ta xem một chút.”
Tuệ An nói xong đã đi tới, bên môi mang theo ý cười ôn hòa. Lúc này lão hán kia mới giật mình tỉnh lại, hồ nghi liếc Tuệ An, lầm bầm một tiếng:
“Chớ không phải là Hồ tiên*… “
*Hồ tiên: Người xưa cho rằng hồ ly tu luyện có thể thành tiên. Tục truyền rằng, loài cáo có tài cám dỗ con người, cho nên những người con gái làm cho lòng người say đắm thường được nói là hồ mị.
Giọng ông tuy không lớn, nhưng Tuệ An và Hạ Nhi đều nghe được, Tuệ An gặp Hạ Nhi muốn nói liền nhìn nàng một cái, lúc này mới cười với lão hán:
“Lão bá, ban ngày ban mặt lấy đâu ra Hồ tiên, ta lớn như vậy còn chưa được tận mắt trông thấy Hồ tiên bao giờ, nếu có lão nhớ gọi ta xem nữa đấy?”
Hạ Nhi thấy Tuệ An không tức giận, ngược lại cũng nở nụ cười, nàng nhìn Tuệ An vì vui vẻ mà trên mặt càng lộ nét quyến rũ, thầm kêu một tiếng, khó trách lão bá này nghĩ cô nương nhà mình là Hồ tiên.
Một sân viện cũ nát thế này, tự dưng nhảy ra một cô nương tướng mạo bất phàm, xiêm y quý giá, không ngạc nhiên mới là lạ.
Tuệ An nói xong, lão bá kia mới phát giác ra mình thất thố, ông nhìn Tuệ An bận cười thành tiếng, sau đó lại kinh ngạc nhìn quanh, nói:
“Cô nương, đây có phải nhà thú y Lưu lão?”
Lưu lão bá tên gọi Lưu Tam Đức, là thú y nổi tiếng khắp mấy trăm dặm Liễu Thành này, mặc dù ông không mở y quán xem bệnh, nhưng bình thường ai có việc đều trực tiếp đến tìm ông qua nhà chữa trị cho động vật trong nhà.
Năm đó Tuệ An đến Liễu Thành tới tìm người, còn không phí bao nhiêu công phu, hỏi thăm hai lượt đã tìm thấy người.
Hai năm qua Tuệ An đi theo Lưu lão bá học chữa bệnh cho ngựa, cũng thường xuyên gặp người dẫn ngựa đến chẩm bệnh, cho nên thấy lão bá này dắt ngựa đi đến, Lưu lão bá lại trùng hợp không có ở đây, Tuệ An liền thay ông tiếp đón.
Nàng nghe lão bá hỏi nhưng lại không đáp, chỉ cẩn thận xem xét con ngựa ông dắt theo.
Con ngựa kia nhìn xác thực không tốt, tinh thần ủ dột, uể oải cúi đầu, đứng mà nghiêng ngả lảo đảo, hai vó trước xoạc ra hai bên, chân sau đạp đạp.
Tuệ An liếc nhìn, liền xoay người rút ra roi ngựa bên hông Hạ Nhi, dùng sức quất một roi lên mình con ngựa kia. Đã thấy con ngựa hành động cực kỳ khó khăn, chân bước khẩn trương, da thịt rung động.
Nàng vung một roi xuống, dọa lão bá kia sợ hết hồn, sững sờ một lúc liền tối mặt, tiến lên ngăn cản trước người nàng, bảo vẹ con ngựa kia ở sau lưng, trợn con nhìn chằm chằm Tuệ An, phẫn nộ nói:
“Tiểu nha đầu nhà ngươi làm cái gì thế! Con ngựa này chính sinh mạng của ông già ta, nếu nó xảy ra chuyện chẳng lành, ta và ngươi đều không xong đâu!”
Tuệ An coi như không nghe thấy, cười nói:
“Lão bá, ngựa này của ông là bị viêm vó, chỉ là tổn thương nho nhỏ, không có chuyện gì lớn.”
Lão bá nghe vậy sững sờ, sau đó mới hồ nghi nhìn Tuệ An, vẻ mặt không tin tưởng nói:
“Tiểu nha đầu lừa gạt ta đấy à, ngươi biết xem bệnh cho ngựa?”
“Lão bá, ta là đồ đệ của Lưu lão, tự nhiên sẽ biết xem bệnh cho ngựa. Ngựa này của ông chỉ cần trích máu nhiễm khuẩn, ta lại lấy cho nó hai thang thuốc, trở về để nó uống liền vô sự.”
Tuệ An nói xong liền phân phó Hạ Nhi mang hòm thuốc của nàng đến. Một lát sau, Hạ Nhi mở rương gỗ, lấy dao găm ra, lão bá nhưng lại sống chết không cho phép hai người Tuệ An đến gần ngựa của mình.
Tuệ An cũng không nói nhiều, chỉ quay đầu gọi Hạ Nhi:
“Lấy một nén vàng ra đây.”
Đợi Hạ Nhi từ trong túi lấy ra một nén vàng ròng, Tuệ An cầm lấy, cười nói với lão bá kia:
“Lão bá, ngựa này ta chưa cho ông, nếu như chữa khỏi, ta không lấy một xu, nếu nó chẳng may có làm sao, nén vàng này tính là ta bồi thường, ông thấy thế nào?”
Lão bá đời này chưa từng thấy qua vàng ròng, nghe vậy nhìn chằm chằm nén vàng trong tay Tuệ An, trong lòng thầm tính toán.
Ngựa của Đại Huy vẫn luôn khan hiếm, cho nên giá bán rất đắt, một con ngựa trưởng thành có thể bán được ba bốn mươi lượng bạc, con ngựa này của ông mặc dù không phải quá trưởng thành, nhưng thể trạng cùng màu lông rất tốt, bán đi cũng phải được năm sáu mươi lượng bạc.
Mà nén vàng này nhìn thế nào cũng hơn mười hai hoa, có thể đổi được tám mươi lượng bạc trắng, tám mươi lượng bạc trắng có thể mua được đến hai con ngựa tốt ấy chứ.
Lão bá nghĩ tới đây, biết vụ làm ăn này chỉ lợi không hại, lúc này liền nói:
“Tiểu cô nương nói thật?”
Tuệ An gật đầu, lão bá mới vui vẻ dịch người, Tuệ An liền lấy cây ngân châm dài chừng hai ngón tay châm vào hai huyệt Thiên Môn, Phục Thổ của con ngựa, con ngựa mềm nhũn ngã trên mặt đất, Tuệ An cười liếc nhìn lão bá mặt đầy khẩn trương, nói:
“Ngựa này có phải hai hôm nay biếng ăn, còn hô hấp dồn dập, tinh thần uể oải hay không?”
Lão bá thấy Tuệ An nói đúng, không khỏi giật mình, gật đầu nhẹ, nói:
“Con ngựa này là bảo bối của cả nhà ta, để mua nó ta còn phải vay mượn khắp nơi, từ lúc mua về liền không dám để nó ăn cỏ khô, uống nước lạnh, hầu hạ mọi bề, nhưng vẫn sinh bệnh, hai ngày nay cái gì nó cũng không ăn, khiến ta đây đều ăn không ngon ngủ không yên vì nó.”
Tuệ An nghe vậy cười một tiếng, lại nói:
“Trong nhà lão bá có con trai ư?”
Lão bá nghe Tuệ An hỏi như vậy, cười một tiếng, nói:
“Chỉ có duy nhất một đứa con trai, là tâm can của lão Trịnh ta đây. Năm nay thẳng bé mới vừa hai bốn, vẫn chưa làm mối được nhà nào! Sắp tới triều đình sẽ dàn quân Bắc chinh, muốn để thằng con trai nhà ta không bị gọi đi lính, lão Trịnh ta cho dù đập nồi bán sắt cũng phải làm.
Thế là đành cắn răng vay mượn lung tung mua con ngựa này, đây chính là con ngựa đầu tiên trong thôn ta! Từ lúc nhà ta mua nó, mấy tiểu cô nương trong thôn đều ngày ngày kiếm cớ đến nhà ta đây, bà mối chỉ kém không đạp nát ngưỡng cửa nhà ta làm mối, haha.”
Hạ Nhi nghe vậy cả cười, che miệng nói:
“Vậy thì lão bá ông mau cưới con dâu thôi!”
Tuệ An nghe hai người hàn huyên, lão bá mặt mày hớn hở nói con trai mình được hoan nghênh thế nào, không khỏi cũng cười theo.
Đại Huy vốn thiếu ngựa, bởi vì sắp khai chiến cùng Bắc Hồ, hai năm qua ngựa chuyên dụng trong quân đội ngày càng không đủ.
Triều đình ban bố Phục Mã sách, gia đình dân chúng phàm là nuôi một con ngựa thì có thể bớt một suất đi lính, con trai của lão bá này tất nhiên khỏi cần bị gọi nhập ngũ ra chiến trường, các cô nương trong thôn sao không vội vàng gả vào cửa cho được.
Lão bá kia vừa nói xong, Tuệ An đã dùng lưỡi dao găm gõ vào vó ngựa, con ngựa bị đau khẽ hí một tiếng, lão bá lập tức liền nhìn qua. Tuệ An liền nói:
“Không có việc gì, lão bá sờ chân nó đi, rất nóng, đây là bị sưng phù bên trong.”
Tuệ An vừa nói vừa dùng lưỡi dao rạch một vết thương nhỏ trên vó ngựa, nhất thời máu liền chảy ra, lão bá kia cả kinh, Tuệ An lại nói:
“Đổ máu mới bớt nóng, lão bá yên tâm đi, ngựa này của ông chảy càng nhiều máu thì càng nhanh khỏi bệnh.”
Nàng nói xong nhìn về phía Hạ Nhi:
“Mang một ít vải bông đến đây, lại bưng thêm một chậu nước lạnh.”
Hạ Nhi lên tiếng mà đi, Tuệ An lại trấn an lão bá:
“Lão bá, ngựa này của ông là chăm sóc tốt quá, nên mới nuôi ra ngoài bệnh. Ông chỉ cho nó ăn cỏ tươi thì không được, không chỉ lãng phí, hơn nữa còn dễ dàng sinh bệnh viêm vó này, hơn nữa ông còn không để nó làm việc, nó ít hoạt động, điều này cũng dễ dàng sinh viêm vó. Còn nữa, ngựa này phải thường xuyên sửa vó mới tốt, sửa vó rất đơn giản, ông nhìn đi, chỉ cần như vậy… “
Tuệ An nhanh chóng chuyển động cổ tay, lay lay lần lượt bốn vó ngựa, lão bá thấy máu dọc theo vó ngựa không ngừng chảy ra bên ngoài, trong lòng vốn hơi căng thẳng, nay nhìn con ngựa kia quả thật tinh thần sáng sủa không ít liền tin Tuệ An, vội vàng nghiêm túc nhìn nàng làm, thỉnh thoảng hỏi đôi câu.
Tuệ An sửa xong bốn vó, Hạ Nhi cũng bưng nước lạnh trở lại, Tuệ An cầm vải bông nhúng vào nước lạnh, quấn kỹ bốn vó. Xong xuôi mới đứng dậy, lại quay qua dặn dò lão bá:
“Nếu lão bá ngại sửa vó phiền toái, không bằng đi làm cho nó cái vó sắt, không tốn bao nhiêu tiền đâu.”
Hạ Nhi đỡ Tuệ An dậy, gấp rút mang nước ấm tới, Tuệ An rửa sạch tay, lại nói tiếp:
“Ngựa này của ông còn có chút tổn thương, không nghiêm trọng, ta châm cho nó thêm hai châm, trở về ông đừng cho nó ăn quá nhiều, đợi hai ngày thì tốt rồi. Mặt khác, bệnh viêm vó này còn phải dùng chút thuốc đắp, cũng không cần rườm rà, ta nói lão bá nhớ kỹ là được. Nếu ngày sau nó lại như vậy, ông cũng không cần lại đến đây một chuyến.”
Lão bá kia thấy con ngựa giãy giụa muốn đứng lên, nhìn hai mắt sáng rỡ, gấp rút gật đầu, lúc này Tuệ An mới chậm rãi nói:
“Phương thuốc này là, hồng hoa, đương quy, chỉ xác, hậu phác, trần bì, thần khúc, sơn tra, mạch nha, cát cánh, hoàng dược tử, bạch dược tử, cam thảo, mỗi thứ sáu tiền, nếu chân nó lại bị nóng, vậy thì một ngày rót ba lượt thuốc nước, nếu tinh thần còn tốt, dùng vải bông ngâm vào thuốc này bọc ở quanh chân liền có thể thấy được hiệu quả.”
Lão bá gật đầu liên tục, đang nói chuyện thì cửa bị đẩy ra, một lão bá khác tuổi tầm sáu mươi, người mặc áo vải đi đến, ông chính là sư phụ của Tuệ An, Lưu lão.
Lưu Tam Đức trở lại, mà phía sau ông còn đi theo một người, người nọ mặc trường bào xanh ngọc, cổ áo thêu hoa văn đằng vân, đeo đai lưng khảm ngọc, bên eo thắt túi thơm, mang theo Hương cầu chạm rỗng, đôi mắt hoa đào nhìn thấy Tuệ An liền cười thành hình trăng rằm, chính là Tiền Nhã Khanh.
Tuệ An nhìn thấy hắn lại đi theo sau lưng Lưu lão, kinh ngạc nhíu mày, nói:
“Sao ngài lại ở chỗ này?”
Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.net
Dtruyen.com đổi tên miền thành Dtruyen.net. Độc giả ghi nhớ để truy cập.